Ngoại giao Việt Nam: Những năm đầu thành lập

Tác giả: ĐS Hoàng Vĩnh Thành

Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 28/8/1945, thời gian đầu (từ ngày 28/8/1945 đến ngày 2/3/1946 và từ tháng 11/1946 đến tháng 3/1947) do Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh trực tiếp kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Như vậy, cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người sáng lập, lãnh đạo, đồng thời trực tiếp tiến hành hoạt động ngoại giao của nước Việt Nam độc lập. Vốn là thuộc địa của Pháp, không có vị trí và quyền hành gì trong quan hệ đối ngoại, khi trở thành quốc gia độc lập, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải xây dựng bộ máy chính quyền nói chung và Bộ Ngoại giao nói riêng từ “con số không”. Continue reading “Ngoại giao Việt Nam: Những năm đầu thành lập”

Đại Việt lần đầu đánh bại quân Nguyên Mông 

Tác giả: Hồ Bạch Thảo

Đời Vua Trần Thái Tông, đầu năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 20 [1251], đổi sang niên hiệu Nguyên Phong thứ nhất :

Ngày Tân Hợi, mùa xuân, tháng 1, nămThiên Ứng Chính Bình thứ 20 [2/1251] Mùa xuân, tháng 1; đổi nguyên hiệu là Nguyên Phong năm thứ 1.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 5.

Nhà Vua mở tiệc vui trong nội điện, mọi người đều hân hoan ca hát, viên Ngự sử Trần Chu Phổ cũngcùng mọi người đứng dậy, nhưng không hát theo:

Vua ban yến ở nội điện, các quan đều dự. Đến khi say, mọi người đứng cả dậy, dang tay mà hát. Ngự sử trung tướng Trần Chu Phổ cũng dang tay theo mọi người, nhưng không hát câu gì khác, chỉ nói:

‘Sử quan ca rằng, sử quan ca rằng’“. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 5. Continue reading “Đại Việt lần đầu đánh bại quân Nguyên Mông “

Tính chất cách mạng, tiến bộ của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

Đông kinh nghĩa thục (ĐKNT) nghĩa là “trường tư thục vì nghĩa (vì dân, không vì lợi ích riêng) ở Đông Kinh (tên thành Thăng Long thời nhà Hồ). ĐKNT mô phỏng hình mẫu Khánh Ứng Nghĩa Thục (Keio Gijuku慶應義塾) của Fukuzawa Yukichi lập năm 1868 tại kinh đô Tolyo nước Nhật đầu thời Duy tân Minh Trị.

Sáng lập ĐKNT là cố gắng chung của nhiều sĩ phu yêu nước.[1] ĐKNT khai giảng tháng 3 năm 1907 tại Hà Nội. Tuy giấy phép mở trường có nói trường phải “theo phương châm khai hóa của chính phủ bảo hộ”, song thực ra ĐKNT chú trọng giáo dục quần chúng lòng yêu nước, các kiến thức phổ thông (chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật), truyền bá chữ quốc ngữ, tân học, lối sống mới và văn minh phương Tây. Continue reading “Tính chất cách mạng, tiến bộ của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục”

Các diễn ngôn về thể chế chính trị của Champa

Tác giả: Đổng Thành Danh

Tóm tắt: Bài viết này sẽ điểm lại những nghiên cứu liên quan đến thể chế chính trị của các chính thể ở miền Trung Việt Nam thời kỳ cổ – trung đại thông qua những nghiên cứu về thể chế chính trị của vương quốc Champa, từ những quan điểm cho rằng Champa là một vương quốc theo kiểu tập quyền đến quan điểm coi đây là một liên bang (hoặc liên hiệp). Sau đó, chúng tôi trình bày những công trình về thể chế liên bang Champa khi ý tưởng này đã được chấp thuận rộng rãi. Những nghiên cứu về thể chế chính trị của liên bang Champa giúp chúng ta có những tiếp cận tham chiếu về nguồn gốc và những đặc thù của thể chế chính trị ở miền Trung thời kỳ Chúa Nguyễn. Continue reading “Các diễn ngôn về thể chế chính trị của Champa”

Đại Việt dưới thời Thiên Ứng Chính Bình của Trần Thái Tông

Tác giả: Hồ Bạch Thảo

Triều vua Trần Thái Tông với 8 năm thời Kiến Trung đã trình bày ở phần trước; xin khảo tiếp sự việc khoảng gần 20 năm dưới thời Thiên Ứng Chính Bình [1232-1250]. Bấy giờ đất nước tương đối thanh bình, nên triều đình chú trọng củng cố chính quyền, xây dựng, sắp xếp học hành thi cử, đắp đê ngăn lụt; lưu ý an ninh biên giới phía bắc, nhắm ngăn chặn đám du binh Nguyên Mông từ Vân Nam sang quấy phá tỉnh Quảng Tây, để có thể tiếp tục liên lạc ngoại giao với triều Tống tại miền đông bắc.

Nhắm củng cố chính quyền, nguồn nhân lực quan trọng đứng hàng đầu; tại Thanh Hóa, Nghệ An thời Kiến Trung [1225-1231] đã có lệnh xét duyệt về hộ tịch, đến nay lại giao cho các viên trọng thần như Phùng Tá Chu, Trần Thủ Độ duyệt lại; riêng toàn quốc thì đến các năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 11, 12 [1242-1243] mới làm. Sử gia Ngô Thì Sĩ có nhận xét rằng Nghệ An, Thanh Hóa là các vùng thuộc phía nam đất nước, các đời trước chưa có dịp làm công tác hộ tịch kỹ như tại miền bắc, nên đòi hỏi phải làm kỹ hơn: Continue reading “Đại Việt dưới thời Thiên Ứng Chính Bình của Trần Thái Tông”

Đằng sau hành trình 25 năm quan hệ Việt – Mỹ

Tác giả: Trường Minh – Việt Lâm

Kỳ 1: Những người Mỹ nhiều “duyên nợ” với Việt Nam bắc nhịp cầu hàn gắn

Đầu tháng 4/2020, dòng tweet của Tổng thống Mỹ Donald Trump thu hút sự chú ý của đông đảo công luận quốc tế, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang hoành hành dữ dội tại Mỹ và nhiều quốc gia.

Tổng thống Hoa Kỳ cảm ơn những người bạn ở Việt Nam đã hỗ trợ để chuyển giao nhanh chóng các trang thiết bị bảo hộ cá nhân cho nước Mỹ.

Đó chỉ là một trong những chi tiết cho thấy mối quan hệ giữa hai cựu thù giờ đã tiến đến mức độ tin cậy và nồng ấm như thế nào. Nhưng với những người đã từng tham gia tích cực vào quá trình bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, đó là cả một hành trình đằng đẵng kéo dài hai thập kỉ, với biết bao nghi kị, thù địch, bao lực cản tưởng chừng không thể vượt qua. Continue reading “Đằng sau hành trình 25 năm quan hệ Việt – Mỹ”

Đại Việt dưới thời Trần Thái Tông [1225-1257]

Tác giả: Hồ Bạch Thảo

Niên hiệu: Kiến Trung 1225-1231; Thiên Ứng Chính Bình 1232-1250; Nguyên Phong 1251-1257

Vua họ Trần, tên húy là Cảnh, trước tên húy là Bồ, làm Chi hậu chính triều Lý, được Chiêu Hoàng nhường ngôi, ở ngôi 33 năm [1226-1258], nhường ngôi cho con 19 năm, thọ 60 tuổi [1218-1277], băng tại cung Vạn Thọ, táng ở Chiêu Lăng. Truyền thuyết kể rằng trước kia, tổ tiên Vua là người đất Phúc Kiến; lại có người bảo là người Quế Lâm, Quảng Tây. Tổ 5 đời tên là Kinh đến sinh sống tại hương Tức Mặc [huyện Xuân Trường, Nam Định], mấy đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Phụ quốc thái úy đời Lý, Trần Thừa; mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần Kiến Gia thứ 8 [1218]; nhà Vua tướng mạo uy nghi, mũi cao, mặt rộng. Khi mới 8 tuổi, làm Chi hậu chính chi ứng cục triều Lý; được vào hầu trong cung. Lý Chiêu Hoàng thấy vua thì ưa; ngày 12 tháng 12 năm Ất Dậu [1225], được Chiêu Hoàng nhường ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung. Continue reading “Đại Việt dưới thời Trần Thái Tông [1225-1257]”

Những nét đặc trưng về triều đại nhà Lý (P2)

Tác giả: Hồ Bạch Thảo

3. Đánh Tống, bình Chiêm

Đánh Tống

Đánh Tống khác với các cuộc chiến tranh khác thời xưa; đây là cuộc chiến tranh đa dạng, sử dụng ý thức hệ, tình báo, và cả nội tuyến:

Về chiến tranh ý thức hệ, lúc đánh Tống quân ta đi đến đâu đều trưng lên bản tuyên cáo gọi là “Lộ Bố[1] nêu cao cuộc chiến chính nghĩa tự vệ, do phía Tống gây hấn trước. Lại chỉ trích việc nhà Tống dưới sự chỉ đạo của Tể tướng Vương An Thạch với danh nghĩa cải cách, đặt ra các phép Thanh miêu,[2] Trợ dịch,[3] Bảo giáp;[4] kềm kẹp dân chúng. Vì lòng dân Trung Quốc sẵn mối bất mãn với các quan lại hà khắc, cưỡng bách thi hành cải cách, bắt dân đoàn ngũ hóa giống như trại lính; nên hưởng ứng lời chỉ trích trong bản Lộ Bố, quay sang ủng hộ quân ta: Continue reading “Những nét đặc trưng về triều đại nhà Lý (P2)”

Khởi nguồn của Champa: Một tiếp cận dựa trên sử liệu phi truyền thống

Tác giả: Đổng Thành Danh

Tóm tắt: Bài viết này xem xét lại lần lượt các nguồn sử liệu cũng như các cách sử dụng và diễn giả các nguồn sử liệu liên quan đến sự hình thành của (các) vương quốc Champa cổ ở miền Trung Việt Nam. Thông qua đó tác giả muốn gợi ý một số cách tiếp cận mới về sự hình thành và biến đổi của các vương quốc cổ ở miền Trung trong quá khứ từ quá trình hình thành, liên kết thông qua sự xuất hiện của một chính thể chung gọi là Champa.

Đối với những Nhà nghiên cứu sử học cổ – trung đại và những người quan tâm đến lịch sử, cái tên Champa không phải là một danh xưng xa lạ, nhưng đến nay vẫn còn chứa đựng nhiều điều bí ẩn. Hầu hết những diễn ngôn gần nhất của giới học giả đều nhìn nhận Champa như một vương quốc tập hợp nhiều tiểu quốc ở miền Trung Việt Nam (đôi khi cả khu vực Tây Nguyên),  chưa có tư liệu nào chứng minh Champa là “một quốc gia”(G. Maspero 1928; Dohamide – Dorohiem 1965; Po Dharma 1999, tr. 9 – 36; P-B. Lafont 1999, tr. 39 – 54, P-B. Lafont 2011; Lương Ninh 2006). Về thời gian tan rã của Champa hiện có nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều người lấy mốc 1471 để kết thúc sự tồn tại của nhà nước Champa. Sau 1471 chỉ còn tồn tại tiểu vương Kauthara và Panduranga và lấy núi Đá Bia là ranh giới lãnh thổ. Continue reading “Khởi nguồn của Champa: Một tiếp cận dựa trên sử liệu phi truyền thống”

Tiếng Việt kỳ diệu: Hành trình từ chữ Nho, chữ Nôm đến chữ Quốc ngữ

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

Đã hơn trăm năm nay nước ta chính thức sử dụng chữ Quốc ngữ, thứ chữ viết được các nhà trí thức tiên tiến đầu thế kỷ20 ca ngợi là Hồn trong nước; Công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt và tin rằng Nước Nam ta sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ.

Dư luận nước ta trước đây quy công trạng làm ra thứ chữ kỳ diệu ấy cho giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes. Gần đây lại có dư luận yêu cầu ghi công các giáo sĩ không phải người Pháp như Francisco de Pina, António Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes… và đóng góp của giáo dân miền Nam nước ta từng giúp các giáo sĩ đó học tiếng Việt, và đóng vai trò “giám định” trong quá trình thí điểm sử dụng thứ chữ mới ấy. Continue reading “Tiếng Việt kỳ diệu: Hành trình từ chữ Nho, chữ Nôm đến chữ Quốc ngữ”

Trần Quốc Hương: Người chỉ huy những nhà tình báo huyền thoại

Tác giả: Hoàng Hải Vân

1. Người chỉ huy 4 lưới tình báo chiến lược của trung ương và khối điệp báo chủ yếu của miền

Ông Trần Quốc Hương (Mười Hương) hoạt động cách mạng từ tiền khởi nghĩa, từng bị thực dân Pháp cầm tù, là cộng sự thân cận gần gũi Cụ Hồ, Tổng bí thư Trường Chinh và nhiều nhà lãnh đạo “khai quốc” khác.

Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm Phó giám đốc Nha Tình báo trung ương. Năm 1954, ông được cử vào Nam làm nhiệm vụ đặc biệt cùng với Xứ ủy Nam Bộ tổ chức mạng lưới tình báo nhằm chuẩn bị thi hành Hiệp định Genève thống nhất đất nước. Continue reading “Trần Quốc Hương: Người chỉ huy những nhà tình báo huyền thoại”

Toan tính của các cường quốc đằng sau Hiệp định Geneva 1954

Biên dịch: Lê Đỗ Huy

Sách “Những viên than hồng của cuộc chiến: Sự sụp đổ một đế quốc và sự tạo tác một Việt Nam Cộng hòa” (Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America’s Vietnam) được NXB Random House xuất bản năm 2012. Sách đoạt giải Pulitzer và nhiều giải thưởng khác ở phương Tây, vì các giá trị sử học và quan hệ quốc tế. Theo Nhà sách trên mạng Amazon, nhờ khai thác hồ sơ lưu trữ ngoại giao mới giải mật ở một số quốc gia, tác giả Mỹ Fredrik Logevall đã dẫn người đọc lần theo lối mòn từng dẫn hai cường quốc phương Tây lạc lối một cách bi thảm trong rừng rậm ở Đông Nam Á.

Dưới đây là trích dịch chương nói về kết quả Hội nghị Geneva của sách. Các đầu đề nhỏ là của người dịch. Continue reading “Toan tính của các cường quốc đằng sau Hiệp định Geneva 1954”

Lịch sử xung đột biên giới Trung – Ấn

Nguồn: Russell Goldman, “India-China Border Dispute: A Conflict Explained“, The New York Times, 17/06/2020.

Biên dịch: Nguyễn Thanh Hải

Cái chết của 20 binh sĩ Ấn Độ trong vụ ẩu đả với phía Trung Quốc là cuộc đụng độ chết chóc nhất trong nhiều thập niên giữa hai quốc gia sỡ hữu vũ khí hạt nhân, nhưng đây không phải là lần đầu tiên.

Không có bên nào nổ súng trong cuộc đụng độ mặc dù đây là lần chạm trán dữ dội nhất trong nhiều thập niên giữa quân đội hai nước dọc đường biên giới tranh chấp trên dãy Himalaya.

Thay vào đó, quân lính của hai quốc gia có vũ khí hạt nhân sử dụng vũ khí làm từ những gì tìm thấy được ở vùng đất khắc nghiệt cao 4.200m so với mực nước biển. Continue reading “Lịch sử xung đột biên giới Trung – Ấn”

Những nét đặc trưng về triều đại nhà Lý (P1)

Tác giả: Hồ Bạch Thảo

Tóm tắt về triều đại nhà Lý nước ta, Tống Sử chép:

Họ Lý có được nước từ Công Uẩn đến Hạo Sam, truyền ngôi 8 lần, được hơn 220 năm thì mất”.[1] Tống Sử, quyển 488, Giao Chỉ.

Lời nhận xét này chưa được hoàn toàn chính xác, bởi họ Lý chấm dứt sau triều đại Lý Chiêu Hoàng, chứ không phải thời Vua cha Hạo Sam tức Lý Huệ Tông, tổng cộng 9 đời; còn về thời gian trị vì là 215 năm, chứ không phải là trên 220 năm. Lược kê về năm từng triều đại, theo thứ tự như sau: Continue reading “Những nét đặc trưng về triều đại nhà Lý (P1)”

Giang sơn Đại Việt chuyển từ nhà Lý sang nhà Trần

Tác giả: Hồ Bạch Thảo

Vào cuối năm 1210, Vua Cao Tông không khỏe, lập Thái tử Sảm lên kế vị, miếu hiệu là Huệ Tông. Nhà Vua tôn mẹ Đàm thị làm Hoàng thái hậu, sai đón vợ là người con gái họ Trần về làm Hoàng hậu:

Mùa đông, tháng 10, năm Trị Bình Long Ứng thứ 6 [1210], vua không khỏe, gọi Đỗ Kính Tu vào nhận mệnh ký thác. Ngày 28 Nhâm Ngọ, vua băng ở cung Thánh Thọ.

Hoàng thái tử Sảm lên ngôi ở trước linh cữu bấy giờ mới 16 tuổi. Tôn mẹ là Đàm thị là Hoàng thái hậu, cùng nghe chính sự. Lại đem thuyền rồng đi đón Trần thị. Anh Trần thị là Trần Tự Khánh cho rằng bấy giờ đương lúc loạn lạc, chưa đưa đi ngay được.” Toàn Thư, Bản Kỷ quyển 4. Continue reading “Giang sơn Đại Việt chuyển từ nhà Lý sang nhà Trần”

Vai trò của lực lượng Fulro trong Chiến tranh Việt Nam

Nguồn: William H. Chickering, “A War of Their Own”, The New York Times, 09/06/2017.

Lược dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Mùa xuân năm 1967, khi ấy tôi đang là cậu trung úy 22 tuổi của Lực lượng Đặc nhiệm đóng tại một căn cứ nằm trên một đỉnh đồi ở Việt Nam, gần biên giới với Campuchia. Những người lính bên cạnh tôi là người Thượng, một tộc người sống ở vùng cao, khác với người Kinh ở miền xuôi. Hầu như ai trong số này cũng là thành viên của một tổ chức phiến quân tên gọi Fulro, viết tắt tiếng Pháp của Front unifié de lutte des races opprimée hay Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức, với mục tiêu đuổi người Kinh ra khỏi vùng cao nguyên. Căn cứ của tổ chức là một nơi nào đó bên kia biên giới. Continue reading “Vai trò của lực lượng Fulro trong Chiến tranh Việt Nam”

Tóm lược lịch sử Nghĩa sĩ miếu ở Paris

Tác giả: Nguyễn Văn Nghệ

Ngày 09/06/2020 tới đây sẽ đánh dấu kỷ niệm 100 năm ngày khánh thành Nghĩa sĩ miếu tại Paris (Pháp). Khi Thế chiến I nổ ra, nhiều người Việt Nam tùng chinh sang giúp nước Pháp chống lại quân Đức và có hơn 1.500 người vừa lính vừa thợ hy sinh. Sau khi chiến tranh chấm dứt, Chính phủ Pháp nghĩ quân sĩ nước ta tùng chinh trận vong, tiếng thơm việc nghĩa không thể mai một nên mới bàn dựng một ngôi miếu để thờ  binh sĩ Việt Nam trận vong trong cuộc chiến. Địa điểm được dựng là Nogent sur Marne và miếu được đặt tên là “Nghĩa sĩ miếu” (có người gọi là “Nghĩa sĩ từ”). Bên trên mái trước ngôi miếu và bên trên bình phong trước miếu đều có ba chữ Hán “Nghĩa sĩ miếu”. Người Pháp gọi là Temple du Souvenir Indochinois (Đền Tưởng niệm người Đông Dương). Continue reading “Tóm lược lịch sử Nghĩa sĩ miếu ở Paris”

Đại Việt dưới thời vua Lý Cao Tông (1176-1210)

Tác giả: Hồ Bạch Thảo

Niên hiệu: Trinh Phù:1176-1185; Thiên Tư Gia Thụy:1186—1201; Thiên Gia Bảo Hựu:1202-1204; Trị Bình Long Ứng:1205-1210.

Vào đầu năm 1176, Thái tử Long Cán lên ngôi, đổi niên hiệu là Trinh Phù, lúc mất đặt miếu hiệu là Cao Tông; tôn mẹ là Đỗ Thị làm Chiêu thiên chí lý hoàng thái hậu; dùng cậu là Đỗ An Di làm Thái sư đồng Bình chương sự,[1] Tô Hiến Thành làm Thái úy:[2]

Mùa xuân, tháng giêng, nămTrinh Phù thứ 1 [1176], đổi niên hiệu, đại xá thiên hạ. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4. Continue reading “Đại Việt dưới thời vua Lý Cao Tông (1176-1210)”

Nhà Lý dưới thời vua Lý Anh Tông (1138-1175)

Tác giả: Hồ Bạch Thảo

Niên hiệu: Thiệu Minh:1138-1139; Đại Định:1140-1162; Chính Long Bảo Ứng:1163-1173; Thiên Cảm Chí Bảo1174-1175.

Vua Anh Tông lên ngôi lúc mới 2 tuổi, trị vì chưa được bao lâu, vào năm 1140 có người thầy bói tên là Thân Lợi tự xưng là con riêng của Vua Lý Nhân Tông, mang đồ đảng đến vùng Thái Nguyên, Bắc Kạn xúi giục dân chúng nổi dậy:

Tháng 10 năm Đại Định năm thứ 1[1140]. Người thầy bói Thân Lợi tự xưng là con của Nhân Tông đem đồ đảng theo đường thủy đến châu Thái Nguyên [Thái Nguyên, Bắc Kạn], từ châu Tây Nông [Phú Bình, Thái Nguyên] kéo ra, qua châu Lục Lệnh, vào chiếm châu Thượng Nguyên và châu Hạ Nông [Bạch Thông, Bắc Kạn], thu nạp những kẻ trốn tránh, chiêu mộ thổ binh, có đến hơn 800 người, cùng mưu làm loạn.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 4. Continue reading “Nhà Lý dưới thời vua Lý Anh Tông (1138-1175)”

Cần khoa học khi nhận định về nguồn gốc dân tộc Việt

Tác giả: Nguyễn Trần Hoàng

Tác giả Nguyễn Hải Hoành vừa có bài viết “Bàn thêm về nước Nam Việt của Triệu Đà và lịch sử Việt Nam” với kết luận: “khẳng định một sự thực lịch sử: Người Kinh-Việt Nam không phải là hậu duệ của người Bách Việt hoặc Lạc Việt”.

Bỏ qua nội dung bàn về Triệu Đà, phần bàn luận về nguồn gốc người Việt của tác giả rất mơ hồ và không có bằng chứng xác đáng. Các lập luận này tập trung vào vấn đề nguồn gốc dân tộc, địa lý, ngôn ngữ và tên dân tộc.

Tuy nhiên, các nghiên cứu gen, nhân chủng, ngôn ngữ, khảo cổ, địa lý cho thấy các lập luận trên là không chính xác. Bài viết này sẽ phản biện các quan điểm của tác giả Nguyễn Hải Hoành theo từng vấn đề nêu trên. Continue reading “Cần khoa học khi nhận định về nguồn gốc dân tộc Việt”