Bài phỏng vấn GS Alexander Vuving về Biển Đông và quan hệ Mỹ – Trung Quốc

NỘI QUY: Các thành viên tự chịu trách nhiệm về các nội dung mình chia sẻ trên nguyên tắc tuân thủ pháp luật, tôn trọng lẫn nhau.

Viewing 0 reply threads
  • Author
    Posts
    • #8552
      NCQT
      Keymaster

      Bài phỏng vấn GS Alexander Vuving về Biển Đông và quan hệ Mỹ – Trung Quốc

      Biên dịch: Thiên Hương (Dự án Đại sự ký Biển Đông)

      Hiệu đính: Alexander Vuving

      Cuộc phỏng vấn dưới đây với TS. Alexander Vuving [1] được thực hiện bởi Patrick Renz và Frauke Heidemann của chuyên trang IR.asia tại Honolulu vào ngày 27 tháng 3 năm 2015. Trọng tâm chính của cuộc phỏng vấn xoay quanh vấn đề Biển Đông, từ các hoạt động lấn biển xây đảo của Trung Quốc đến các vụ kiện được đưa ra bởi Philippines và Việt Nam, các cội nguồn lịch sử của các tranh chấp lãnh thổ này, và quan hệ Mỹ – Trung Quốc. Tất cả các chú thích là của Patrick Renz và Frauke Heidemann thêm vào với mục đích đưa ra một số kiến ​​thức bổ sung cơ bản và cung cấp liên kết đến các tài liệu được trích dẫn để người đọc có thể theo dõi các vấn đề này một cách dễ dàng.

      (Bản dịch tiếng Việt được chính TS. Alexander Vuving hiệu đính cho độc giả Việt Nam – BTV)

      1. Biển Đông

      Các hoạt động cải tạo các bãi đá của Trung Quốc không phải là một hiện tượng mới khi các nước láng giềng khác cũng đã xây dựng các công trình kiến trúc khác tại đây. Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng mặc dù các hoạt động cải tạo của Trung Quốc đang diễn ra trên một quy mô khác, chúng vẫn không cộng thêm giá trị chiến lược nào vào một kịch bản xung đột vốn dĩ bao gồm cả Mỹ. Hơn nữa, từ góc độ pháp lý Trung Quốc không thể đưa ra yêu sách trong một phiên toà rằng những tảng đá hoặc rạn san hô đó nay đã có tư cách như một hòn đảo dựa theo UNCLOS. Ông có cho rằng có một lý do khác đằng sau hay đó chỉ là một trò chơi quyền lực của Trung Quốc? 

      Alexander Vuving: Chúng ta cần phải nhìn vào việc lấn biển xây đảo của Trung Quốc trên Biển Đông từ một góc độ khác hơn so với cách tiếp cận thông thường vốn dĩ tập trung vào các hệ quả về mặt quân sự và pháp lý của các hoạt động này. Trung Quốc đang theo đuổi một chiến lược dựa trên những nguyên tắc rất khác biệt so với suy nghĩ truyền thống của phương Tây. Triết lý cơ bản đằng sau chiến lược này có thể được tìm thấy trong Binh pháp Tôn Tử[2]. Đó là ý tưởng “không đánh mà thắng”[3]. Vì vậy, trong khi Trung Quốc rõ ràng là muốn giành chiến thắng trong cuộc chơi, họ muốn đạt được mục tiêu của mình mà không hề phải dùng đến các hành động quân sự. Các hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông, từ việc lấn biển xây đảo cho đến việc sử dụng Quân Giải phóng Nhân dân cũng như các lực lượng phi quân sự và chiến tranh pháp lý, là các yếu tố của chiến lược “không đánh mà thắng” này. Bạn sẽ lạc hướng nếu nhìn vào những gì Trung Quốc đang làm ở Biển Đông và tìm xem chúng có ý nghĩa gì trong một cuộc chiến. Bạn cũng sẽ lạc hướng nếu cứ chăm chăm vào việc tìm hiểu ý nghĩa pháp lý của công việc này. Bởi vì những hòn đá Trung Quốc đang xây dựng thực tế là đá chìm dưới nước và không phải là đảo nên do đó không thể tạo ra một khu vực đặc quyền kinh tế (EEZ)[4].

      Những gì Trung Quốc đang làm hiện nay là thiết lập nhiều vị trí khác nhau trên Biển Đông và xây dựng chúng thành những điểm kiểm soát vững chắc. Trung Quốc muốn tạo ra một tình huống mà khi mọi người nhìn vào thiên hướng của nó, họ sẽ phải nghĩ rằng Trung Quốc cuối cùng sẽ là kẻ chiến thắng. Từ đó, các quốc gia khác sẽ thấy tốt nhất là không nên khiêu khích Trung Quốc, nên từ bỏ cuộc chơi để tránh đụng độ với kẻ cuối cùng sẽ chiến thắng. Đây chính là triết lý cơ bản của Trung Quốc.

      Trung Quốc đang lấn biển tạo đảo và xây dựng các phương tiện lưỡng dụng, phục vụ cho cả mục đích quân sự và dân sự. Bến cảng có thể được sử dụng bởi các ngư dân, nhưng cũng có thể là phương tiện cho các lực lượng cảnh sát biển và quân sự. Trung Quốc biện luận rằng các đường băng là cần thiết để hỗ trợ người dân trên đảo nhưng với độ dài khoảng 3,000m thì đường băng trên Đá Chữ Thập đủ dài cho các máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư của họ sử dụng[5].

      Một số luận điểm mà ta thường nghe cho rằng nếu Trung Quốc đặt các cơ sở quân sự trên những hòn đảo nhỏ này, chúng sẽ trở nên dễ bị tổn hại nếu chiến tranh xảy ra. Nhưng Trung Quốc không chuẩn bị cho chiến tranh. Họ đang chuẩn bị cho hòa bình, họ đang chuẩn bị cho chiến thắng mà không cần chiến đấu. Không ai muốn chiến tranh với Trung Quốc và Trung Quốc không chuẩn bị cho thời điểm có chiến tranh thật sự trên biển giữa các hòn đảo này với đất liền của Việt Nam, Philippines hay Malaysia. Nhìn từ các quốc gia như Việt Nam, Malaysia hay Philippines, các căn cứ quân sự và các trung tâm hậu cần của Trung Quốc sẽ ở ngay trước mũi họ, ngay phía bên kia biển. Điều này làm tăng đáng kể khả năng Trung Quốc kiểm soát Biển Đông ngay cả khi họ không đụng độ quân sự. Bởi vì chúng khiến thay đổi tính toán của các bên yêu sách khác khi ưu thế của Trung Quốc ngày càng tăng. Bằng cách này, Trung Quốc đang thiết lập một đấu trường mà nó sẽ làm thay đổi từ trong tâm lý các tính toán chiến lược của các quốc gia trong khu vực. Nếu mọi người nhìn vào Biển Đông trong mười năm tới, họ sẽ nhìn thấy một khu vực đầy các căn cứ, các trung tâm hậu cần và các điểm kiểm soát hùng mạnh, và họ có thể kết luận rằng Trung Quốc đã là thế lực thống trị tại Biển Đông rồi. Trong khi đó, Mỹ lại ở xa, không có bất kỳ căn cứ nào tại đây, nên khi xảy ra đụng độ thực sự, Trung Quốc sẽ đủ sức áp đảo các bên tranh chấp khác.

      Một khía cạnh khác là những hệ quả pháp lý của việc xây đảo. Rõ ràng, điều 121 của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển nói rằng một hòn đảo là là một vùng đất tự nhiên nổi trên mặt nước khi triều cao[6]. Nếu quốc gia nào muốn có một vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý từ một thực thể địa lý trên biển, thực thể này phải được phân loại là một hòn đảo. Hơn thế nữa hòn đảo này còn phải có khả năng duy trì cuộc sống của con người ở đó và có đời sống kinh tế của riêng nó. Bây giờ những gì Trung Quốc đang làm là biến những bãi đá, chủ yếu là chìm dưới nước từ hàng thập kỷ trước, thành các hòn đảo. Mặc dù một tòa án có thể lập luận rằng những hòn đảo này không phải là đảo được hình thành tự nhiên bởi trước đó chúng đã từng ngập trong nước, việc khiếu kiện sẽ là một quá trình rất phức tạp và kéo dài. Trung Quốc không chuẩn bị cho điều này, họ ngay từ đầu đã từ chối đi đến tòa án.

      Thay vào đó, họ đang sáng tạo ra những thực tế mới để có thể yêu sách rằng đây là những hòn đảo và tạo ra một vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý. Trước đây đã từng có những vụ việc tương tự. Việc Nhật xây dựng ở Okinotori-shima là tiền đề cho việc biến các đá này thành đảo và đưa ra yêu sách vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý xung quanh các thực thể đó, mặc dù Trung Quốc và Hàn Quốc chỉ nhìn nhận nó là đá[7]. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu trong vài năm tới Trung Quốc sẽ đưa ra yêu sách các thực thể mà họ chiếm đóng ở Trường Sa là những hòn đảo và chúng có vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý. Điều này là không hợp pháp và các nước khác sẽ phản đối yêu sách đó. Tuy nhiên, trước khi anh ra toà thì anh không có một phán quyết cuối cùng về việc thực thể đó là đá hay đảo và liệu thực thể đó có đủ tư cách để có vùng đặc quyền kinh tế hay không. Và khi đó chủ thể mạnh nhất trong khu vực sẽ làm chủ tình hình và có thể thực thi các yêu sách đơn phương của họ. Trung Quốc là quốc gia mạnh nhất và về mặt lý thuyết họ có thể làm điều này.

      Điều này cũng tương tự như với đường lưỡi bò[8]. Đường lưỡi bò có lẽ là điều vô lý nhất trong các vấn đề pháp lý quốc tế. Nhưng Trung Quốc nói rằng đường lưỡi bò này tồn tại trên biển Đông, và họ thực thi nó. Bộ Ngoại giao Mỹ vừa công bố một nghiên cứu về đường lưỡi bò này[9]. Một lý do mà họ làm như vậy theo tôi là nhằm phơi bày sự thiếu nhất quán trong yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc khi có nhiều phiên bản khác nhau của yêu sách này. Việc so sánh các phiên bản khác nhau này chỉ ra cho cả thế giới thấy điều này thậm chí còn vô lý hơn. Nhưng một lần nữa hành động này của người Mỹ phản ánh một cách nhìn quá ư “pháp lý chủ nghĩa”. Những gì Trung Quốc đang làm là khác hẳn. Chúng mang nhiều ý nghĩa thực tế và lịch sử hơn là ý nghĩa pháp lý. Điều này cũng liên quan đến lập luận của Trung Quốc về các quyền lịch sử và các vùng nước lịch sử của họ tại Biển Đông[10].

      Trong bối cảnh này, từ góc độ một người ngoài cuộc sẽ luôn cảm thấy thú vị khi quan sát vai trò thực tế thật nhỏ bé của các nước ASEAN so với tiềm năng mà lẽ ra nó có thể đảm nhận. Ông có thấy bất kỳ cơ hội nào cho việc thay đổi vai trò lãnh đạo trong nội khối ASEAN và phải chăng các hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông sẽ đưa đến một ASEAN năng động hơn không?

      Alexander Vuving: ASEAN đang chia rẽ sâu sắc trong vấn đề Biển Đông. Gần đây Campuchia chấp nhận quan điểm của Trung Quốc trên Biển Đông rằng tranh chấp này là một vấn đề song phương giữa các bên yêu sách, không liên quan đến ASEAN[11]. Nếu bạn biết rằng các nước thành viên như Campuchia, Lào và Brunei đang chịu ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc, thì ASEAN, vốn là một tổ chức hoạt động trên nguyên tắc đồng thuận, không thể có bất kì tiến triển nào trong vấn đề này. Với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc, vai trò của ASEAN về vấn đề Biển Đông sẽ ngày càng suy giảm. Tôi có thể tưởng tượng một vài “tiểu ASEAN” được dàn xếp giữa một số các thành viên của ASEAN như Việt Nam, Philippines và có lẽ trong tương lai xa là Malaysia, Indonesia và Singapore, và điều này có thể tạo ra một số tác động lên tranh chấp ở Biển Đông. Nhưng ASEAN với tư cách là một tổ chức sẽ ngày càng trở nên kém thích hợp chính bởi sự chia rẽ này.

      Vì vậy, các quốc gia có hai lựa chọn: chờ đợi cho các sách lược của Trung Quốc trở thành hiện thực hoặc buộc phải đến gần hơn với Mỹ?

      Alexander Vuving: Các quốc gia đang phải đối mặt với những thách thức của Trung Quốc ở Biển Đông không ngồi yên. Song song với chiến lược “lát cắt xúc xích” của Trung Quốc ở Biển Đông, chúng ta cũng đang chứng kiến ​​một sự gia tăng từng bước tương tự của việc thắt chặt quan hệ và xây dựng liên minh giữa các quốc gia đang phải đối mặt với cùng một thách thức từ Trung Quốc: đó là Việt Nam, Philippines ở bên trong khu vực Đông Nam Á và Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ ở bên ngoài khu vực. Cùng với cả các nước như Indonesia, Singapore và Australia, các nước vốn chia sẻ một số lợi ích đối với các nhóm các quốc gia nòng cốt trong việc chống lại sự bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông và Biển Hoa Đông, các nước này đang đến gần nhau hơn. Có một tiến trình chung đó là việc thắt chặt quan hệ giữa các quốc gia này, đặc biệt là Philippines, Việt Nam, Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ.

      Ông có cho rằng có hy vọng nào cho các yêu sách pháp lý của Philippines và Việt Nam chống lại Trung Quốc để có thể gây ra ảnh hưởng hay nó chỉ là một sự phản đối mang tính biểu tượng nhiều hơn khi Trung Quốc đang phản đối việc phân xử của toà án trong vấn đề này?

       Điều này sẽ có một số tác động. Bất kỳ thách thức pháp lý nào chống lại quan điểm của Trung Quốc ở Biển Đông đều sẽ có tác động, mặc dù chúng ta không chắc chắn về mức độ và thời gian của nó. Đây không chỉ là một cử chỉ tượng trưng vì nó sẽ ảnh hưởng đến quan điểm của dòng chính trên thế giới. Việc thu hút dư luận thế giới, tức là các quan điểm chủ đạo của đa số mọi người trên các phương tiện truyền thông quốc tế, là rất quan trọng. Nếu Trung Quốc phải đối mặt với một quan điểm rất bất lợi, điều này sẽ đặt áp lực lên Trung Quốc buộc họ phản ứng. Ví dụ như trong vụ kiện mà Philippines đã khởi xướng, tòa án sẽ quyết định về việc có nên đưa ra bản án hay không[12]. Mặc dù bản án mà tòa án có thể đưa ra sẽ không được Trung Quốc thi hành trong thực tế, nó vẫn sẽ tác động đến dư luận thế giới. Bất cứ điều gì mà tòa án đưa ra sẽ được xem là sự thật hoặc ít nhất cũng được xem là phán quyết có thẩm quyền nhất trong tranh chấp này. Nếu tòa án nói rằng đường lưỡi bò là bất hợp pháp, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với áp lực tăng cao từ dư luận thế giới. Vì vậy, mặc dù Trung Quốc không chấp nhận phán quyết của tòa án và chỉ trích phiên tòa này thì đối với phần còn lại của thế giới, Trung Quốc là phía làm sai. Điều tương tự cũng sẽ diễn ra với bất kỳ hành động pháp lý nào mà các quốc gia khác có thể tiến hành chống Trung Quốc tại Biển Đông.

      Khi nhìn vào khu vực và nội dung của các yêu sách, chúng ta sẽ nghĩ đến các vấn đề như tài nguyên cá, các tuyến đường giao thông hàng hải và nhiên liệu hoá thạch. Ông nghĩ điều gì đang thúc đẩy các bên yêu sách chính là Việt Nam, Philippines và Trung Quốc?

      Alexander Vuving: Điều này là rất phức tạp. Câu chuyện phổ biến trên báo chí quốc tế nói rằng tất cả là vì dầu mỏ hoặc các nguồn tài nguyên[13]. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng vấn đề này là cực kỳ phức tạp vì lịch sử tranh chấp lâu đời và vì sự phức tạp trong các lợi ích của các bên yêu sách. Philippines bắt đầu quan tâm đến quần đảo Trường Sa trong thập niên 1960 và 1970. Lợi ích chính ban đầu của Philippines liên quan đến tài nguyên, cụ thể là dầu mỏ. Câu chuyện cũng tương tự với Malaysia, quốc gia bắt đầu đưa ra yêu sách với quần đảo Trường Sa vào thập kỷ 1970 và 1980 sau khi UNCLOS được ký kết và khi tiềm năng dầu tại đây đủ lớn trong con mắt của Malaysia.

      Nhưng đối với Trung Quốc và Việt Nam thì câu chuyện phức tạp hơn nhiều. Ví dụ như lợi ích Việt Nam ở Biển Đông đã có lịch sử vài thế kỉ. Nếu nhìn vào các tài liệu của triều Nguyễn thế kỷ 19 trong đó đề cập đến các vấn đề liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa, chúng ta có thể thấy rằng mối quan tâm chính của Việt Nam ở đây là an ninh. Họ xem quần đảo Hoàng Sa rất là quan trọng trong việc bảo vệ bờ biển trong thế kỷ 19. Trong những năm đầu thế kỷ 20, khi Trung Quốc chú ý tới Biển Đông và nhìn ra lợi ích ở các đảo nhỏ ở đấy và cử tàu khảo sát chúng, điều này cũng chủ yếu vì lý do an ninh. Đó là khi Nhật Bản tiến về phía nam qua Biển Đông, và tìm cách bành trướng lãnh thổ theo hướng đó. Trung Quốc cảm thấy họ cần phải kiểm soát các khu vực này để cảm thấy an toàn hơn trước sự bành trướng của Nhật Bản trong vùng Tây Thái Bình Dương. Đối với cả Trung Quốc và Việt Nam thì vấn đề chính yếu là an ninh.

      Sau đó là đến thời đại của dầu hoả, của những phát hiện về tài nguyên và công nghệ cho phép khám phá đáy biển và UNCLOS (Công ước LHQ về Luật biển), bộ luật cho phép mỗi quốc gia có được 200 hải lý ngoài khơi bờ biển của mình để làm chủ về kinh tế và khai thác tài nguyên. Khu vực này trong một số trường hợp còn lớn hơn phần đất liền của các quốc gia ven biển. Do đó, họ đã phát triển lợi ích liên quan đến các nguồn tài nguyên tại đây. Dầu mỏ cũng là một yếu tố trong đó, nhưng đối với Trung Quốc thì tài nguyên tại đây có một thứ thú vị hơn nhiều so với với dầu mỏ và khí đốt: đó là băng cháy[14]. Với công nghệ hiện tại thì băng cháy chưa thể khai thác ở quy mô thương mại nhưng Trung Quốc tin rằng băng cháy có thể là nguồn nhiên liệu của thế kỷ 21 và Trung Quốc đã phát hiện ra một số khu vực ở Biển Đông có thể khai thác loại hình này của mêtan[15]. Câu chuyện trở nên phức tạp hơn với sự phát hiện các nhiên liệu mới và sự phát triển của công nghệ.

      Một yếu tố khác cũng làm bùng lên căng thẳng trong khu vực là chủ nghĩa dân tộc. Khi Biển Đông trở thành một điểm nóng xung đột, nó gợi lên những tình cảm yêu nước, và trên thực tế ngay cả đối với các quốc gia như Philippines vốn không có chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ như Việt Nam và Trung Quốc thì họ cũng dấy lên những tình cảm yêu nước liên quan đến biển Đông. Ví dụ như Philippines đã đổi tên Biển Đông mà quốc tế quen gọi là Biển Hoa Nam thành Biển Tây Philippine[16] và với một số người Philippines thì biển đã trở thành một biểu tượng cho khả năng đứng lên để chống lại Trung Quốc của nước họ. Biển Đông cũng đã trở thành một biểu tượng cho cuộc kháng chiến của Việt Nam chống lại Trung Quốc. Khi bạn nhìn vào lịch sử lâu dài của Việt Nam sống cạnh Trung Quốc, bất kỳ mâu thuẫn nào với láng giềng này cũng dễ dàng trở thành một biểu tượng của chủ nghĩa dân tộc và bản sắc dân tộc, trong đó người Việt Nam rất tự hào về khả năng kháng cự Trung Quốc. Đối với bản thân Trung Quốc đó là sự toàn vẹn lãnh thổ, khả năng của họ đứng lên chống lại các cường quốc phương Tây, để thay thế cái mà họ vẫn gọi là “thế kỷ sỉ nhục” trong quá khứ. Vì vậy, chúng ta có thể thấy tình cảm và biểu tượng yêu nước đang được hun đúc bởi vấn đề Biển Đông.

      Một yếu tố thứ tư mà đối với Trung Quốc có lẽ là quan trọng hơn cả là vị trí chiến lược của Biển Đông. Đây là nơi có sự tập trung lớn của các luồng giao thông trên biển (SLOC) giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. 80% nguồn cung cấp dầu mỏ sang Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc, cũng như một nửa lượng thương mại hàng hóa của châu Á đi qua Biển Đông. Đối với một cường quốc toàn cầu như Mỹ, Biển Đông trấn giữ các luồng giao thông quan trọng nhất giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Do đó vấn đề ở đây không chỉ là về tài nguyên, chủ nghĩa dân tộc, hay việc phòng thủ đất liền. Biển Đông rất quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào muốn trở thành cường quốc số 1 ở châu Á. Bắt chước cách nói của Mackinder, một trong những cha đẻ của thuyết địa chính trị, thì ta có thể nói rằng ai kiểm soát Biển Đông sẽ thống trị Đông Á[17]. Và với sự trỗi dậy của châu Á và sự tập trung của cải, sức sản xuất và sức mạnh kinh tế ở Đông Á, ai thống trị khu vực này sẽ thống trị cả thế giới trong thế kỷ 21.

      1. Quan hệ Mỹ – Trung Quốc

      Trong khi phân tích quan hệ Trung Quốc và Mỹ, ông đánh giá như thế nào về quan hệ cường quốc kiểu mới này[18] vốn đã được nhấn mạnh rất nhiều ở Trung Quốc?

      Alexander Vuving: Tôi nghĩ rằng đây là một phương sách của Trung Quốc để đánh lừa Mỹ. Ban đầu nó đã được đề xuất bởi Trung Quốc để tái định nghĩa mối quan hệ với Mỹ, để xây dựng một mối quan hệ chưa từng có giữa hai cường quốc quan trọng nhất trên thế giới, khác với mối quan hệ điển hình giữa các cường quốc trong quá khứ. Mỹ bị lôi cuốn vào phương sách này trong thời gian đầu, nhưng sau một thời gian họ nhận ra rằng đây chỉ là một cái bẫy. Những gì Trung Quốc muốn không phải là một loại quan hệ kiểu mới mà là sự thừa nhận của Mỹ đối với các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc. Đấy là ý tưởng đằng sau lời đề nghị của Trung Quốc. Rõ ràng, lợi ích cốt lõi của Trung Quốc như được định nghĩa bởi Trung Quốc là điều mà Mỹ không thể chấp nhận hoàn toàn. Mỹ có thể chấp nhận một phần của nó, nhưng không phải tất cả. Hiện nay, Mỹ không còn nhắc đến câu chuyện này nữa. Bạn có thể nghe thấy các nhà lãnh đạo Trung Quốc nói về nó, nhưng sẽ không nghe thấy điều này từ bất kỳ nhà lãnh đạo Mỹ nào.

      Cảm ơn ông rất nhiều về cuộc phỏng vấn.

      —————–

      Chú thích:

      [1] TS. Alexander Vuving là Phó Giáo sư tại trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương tại Honolulu, Hoa Kỳ. Ông là chuyên gia trong các lãnh vực về an ninh châu Á, Đông Nam Á, Trung Quốc, Việt Nam và Biển Đông. Đọc thêm về TS. Alexander Vuving tại địa chỉhttp://www.apcss.org/college/faculty/vuving/.

      [2] Ngoài ra, chúng ta có thể nhìn vào trò chơi Cờ vây như một phương tiện để hiểu chiến lược lớn của Trung Quốc đằng sau việc cải tạo đảo đá này, như Tiến sĩ Vuving chỉ ra trong bài báo “Thách thức của chiến lược lớn của Trung Quốc: xây dựng quần đảo của riêng mình trên Biển Đông” đăng trên The National Interest ngày 8/12/2014 tại địa chỉ http://nationalinterest.org/feature/chinas-grand-strategy-challenge-creating-its-own-islands-the-11807.

      [3] Phần lớn Binh pháp Tôn tử nói về  việc làm thế nào để vượt trội hơn đối thủ mà không cần tham gia vào các cuộc chiến. Đọc thêm về chiến lược quân sự này và cách chính quyền Trung Quốc sử dụng nó hiện nay tại địa chỉ http://thediplomat.com/2015/03/sun-tzu-and-the-art-of-soft-power/.

      [4] Định nghĩa của đảo và các quyền hệ quả đối với vùng đặc quyền kinh tế theo điều 121 của Công ước Liêu Hợp Quốc về Luật biển sẽ được nhắc đến sau trong bài phòng vấn này.

      [5] Đọc thêm về việc cải tạo đảo đá ở bãi Chữ Thập và đánh giá tình hình tại địa chỉ http://www.janes.com/article/46083/china-building-airstrip-capable-island-on-fiery-cross-reef.

      [6] Điều 121 Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển tại địa chỉ http://www.un.org/depts/los/convention_agreements/texts/unclos/part8.htm.

      [7] Tổng quan về tình trạng hiện nay của nhóm đảo Okinotori và các yêu sách tương ứng được đưa ra tại địa chỉhttp://www.nytimes.com/2014/11/19/business/energy-environment/growing-coral-to-keep-a-sea-claim-above-water.html?_r=0 .

      [8] Tổng quan đầu tiên về đường chín đoạn được đưa ra bởi CFR tại địa chỉ http://www.cfr.org/china/south-china-sea-tensions/p29790.

      [9] Ấn phẩm của Bộ Ngoại giao Mỹ về Các giới hạn trên biển (số 143) “Trung Quốc: Yêu sách hàng hải trên Biển Đông” tại địa chỉhttp://www.state.gov/documents/organization/234936.pdf.

      [10] Vấn đề vùng nước lịch sử cũng được thảo luận trong các ấn phẩm của Bộ Ngoại giao đề cập ở chú thích trước.

      [11] Đọc thêm về sự tán thành của Cambodia với quan điểm cuả Trung Quốc về tranh chấp biển Đông không thể bị giải quyết qua ASEAN tại địa chỉ http://www.voanews.com/content/cambodia-publicly-endorses-china-position-on-south-china-sea/2694301.html.

      [12] Đọc thêm về vụ kiện của Philippines chống lại Trung Quốc tại bài báo http://thediplomat.com/2015/03/philippines-counters-china-in-new-south-china-sea-case-submission/.

      [13] Đọc thêm về nguồn tài nguyên thiên nhiên tiềm năng được kỳ vọng ở biển Đông tãi website của Quản lý thông tin năng lượng tại địa chỉhttp://www.eia.gov/countries/regions-topics.cfm?fips=scs.

      [14] Băng cháy ở dạng tinh thể băng với khí mêtan được khoá ở bên trong. Chúng được tìm thấy đầu tiên ở bờ của thềm lục địa nơi mà đáy biển sụt mạnh xuống đáy đại dương. Đọc thêm về bản đồ tiềm năng và thông tin bổ sung về nhiên liệu này tại http://www.bbc.com/news/business-27021610.

      [15] Đọc thêm thông tin về tiềm năng băng cháy ở biển Đông tại http://www.ft.com/intl/cms/s/2/8925cbb4-7157-11e3-8f92-00144feabdc0.html#axzz3XuwZ5c4F.

      [16] Sau một sự hào hoãn với Trung Quốc trên biển Đông, Philippines đã đổi tên vùng nước xung quanh bờ biển của họ thàng biển Tây Philippines. Đọc thêm thông tin tại http://www.scmp.com/news/china/article/1035119/philippines-tags-coast-west-philippine-sea.

      [17] Halfort Mackinder đã viết trong cuốn “Lý tưởng dân chủ và thực tế: Nghiên cứu về chính trị của tái thiết” là: Ai thống trị Đông Âu sẽ ra làm chủ vùng đất trung tâm. Ai thống trị vùng đất trung tâm sẽ làm chủ thế giới đại dương. Và ai thống trị thế giới đại dương sẽ làm chủ cả thế giới”.

      [18] Mối quan hệ cường quốc kiểu mới đã được nhắc đến trong rất nhiều cuộc thảo luận bao gồmhttp://www.foreignaffairs.com/articles/142178/andrew-s-erickson-and-adam-p-liff/not-so-empty-talk http://www.brookings.edu/research/opinions/2014/12/05-chinese-pessimism-american-cynicism-great-power-li-xu.

      Một phiên bản của bản dịch đã được đăng trên Thanh Niên Online tại http://www.thanhnien.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/trung-quoc-dung-ke-khong-danh-ma-thang-cua-ton-tu-tren-bien-dong-574092.html

      và tại http://www.thanhnien.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/bien-dong-dang-hun-duc-tinh-cam-va-bieu-tuong-yeu-nuoc-cua-nguoi-viet-574107.html

      Bản gốc cuộc phòng vấn có thể được xem tại địa chỉ http://www.international-relations.asia/alexander-vuving-apcss/

      Nguồn: Dự án Đại sự ký Biển Đông

Viewing 0 reply threads
  • You must be logged in to reply to this topic.