Trung Quốc và rủi ro từ hệ thống ngân hàng ngầm

Print Friendly, PDF & Email

Shanghai financial district

Tác giả: Daniel Kollar | Biên dịch: Cảnh Mai Hương

Trong khi Giấc Mộng Trung Hoa là lý tưởng và bình lặng thì Thực Tế Trung Hoa có nhiều khả năng sẽ trở thành ác mộng. Mới gần đây, Trung Quốc đã phải chịu bẽ mặt với lần đầu tiên vỡ nợ trái phiếu công ty, kéo theo đó là sự vỡ nợ của trái phiếu “rác” hay trái phiếu có lợi tức cao. Trong các tháng tới đây, một số lượng lớn các sản phẩm tín dụng của các ngân hàng Trung Quốc sẽ tới kì hạn thanh toán – trong đó một lượng không nhỏ sẽ không có khả năng trả đủ lãi suất chứ chưa nói đến tiền gốc ban đầu.

Những số liệu gần đây cho thấy giá nguyên liệu công nghiệp đang giảm, báo hiệu sự gia tăng của dư thừa công suất và sản phẩm. Điều này có thể dẫn tới tụt giảm doanh thu cho những ngành công nghiệp có tỉ lệ vay vốn cao, và về dài hạn là suy giảm tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước. Tất cả những yếu tố trên là điềm báo không hay cho sự ổn định của nền tài chính Trung Quốc, đặc biệt trong bối cảnh sự phát triển nhanh chóng của thành phần “tín dụng đen” hay là các “ngân hàng ngầm” đang giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước này. Thành phần “ngân hàng ngầm” này có khả năng đưa Trung Quốc đến một cuộc khủng hoàng tài chính quy mô lớn đầu tiên nếu chính phủ và ngành tài chính không cùng nhau hợp tác để tìm ra giải pháp.

“Ngân hàng trong bóng tối” hay “ngân hàng ngầm” được nói đến là các tổ chức tín dụng không trực thuộc hệ thống ngân hàng truyền thống, nhưng giao dịch mọi hoạt động tài chính từ tài khoản bảo đảm ở các ngân hàng đến thị trường trái phiếu và cả dịch vụ cầm đồ. Sự hoạt động của hệ thống ngân hàng ngầm này bùng nổ ở Trung Quốc trong nhưng năm gần đây. Sức cầu tăng đối với vốn và các sản phẩm tín dụng với lãi suất cao cùng với việc thắt chặt quản lý vốn và điều tiết ngân hàng, và sự phân bổ vốn không hiệu quả của ngân hàng trong nước đã thúc đẩy sự phát triển đa dạng của các hình thức tín dụng tư nhân – hay còn gọi là “ngân hàng ngầm”.

Những sự sáng tạo này đã giúp cho tầng lớp trung lưu đang gia tăng ở Trung Quốc có những cơ hội đầu tư mới ngoài bất động sản và gửi ngân hàng với lãi suất thấp. Hệ thống ngân hàng ngầm đã cung cấp cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ kẹt tiền, cần nhiều vốn nhưng bị từ chối bởi các ngân hàng thông thường.Thêm vào đó, hệ thống này đã hoạt động hỗ trợ cho thị trường vốn bị kìm hãm của Trung Quốc, và ở một mức độ nào đó, làm tăng sự dịch chuyển của nguồn vốn đầu tư quốc tế.

Mặc dù những đóng góp tích cực của hệ thống ngân hàng ngầm của Trung Quốc là đáng khen ngợi, nó cũng đồng thời dẫn tới những phát triển đáng lo ngại trong nền kinh tế. Trong những năm gần đây, do những ngân hàng truyền thống từ chối cho vay, những gói đầu tư có nguy cơ cao đã phải phụ thuộc nhiều vào sự cung ứng vốn từ các ngân hàng ngầm để có thể tồn tại.

Những ngân hàng ngầm này huy động vốn cho những dự án trên bằng các sản phẩm tín dụng lãi suất cao, ví dụ như các gói được bán bởi các công ty tín thác và các quỹ quản lý vốn. Thông thường, độ rủi ro của những sản phẩm đầu tư này là không rõ ràng hay thậm chí bị cố tình làm nhập nhằng bởi chính những ngân hàng ngầm bán ra chúng. Ở thời điểm hiện tại, sự rủi ro của hệ thống này cuối cùng đã lộ diện. Khi tính lợi nhuận đáng ngờ của nhiều dự án trên dần trở nên rõ ràng thì cũng là lúc mà nhiều người lên tiếng về nguy cơ ngành ngân hàng ngầm của Trung Quốc đang đi tới đổ vỡ.

Chính phủ Trung Quốc và các quan chức trong ngành ngân hàng, cũng như một số nhà phân tích tài chính nước ngoài đã khẳng định vấn đề của các ngân hàng ngoài lề này là có thể quản lý được. Những lý do được đưa ra bao gồm: quy mô của hệ thống này là nhỏ so các nước khác, một số tỷ lệ so sánh nợ vẫn trong vùng an toàn, và tình trạng các cổ phiếu thế chấp được cho là khá tốt. Tuy nhiên, chỉ cần một cú sốc bất ngờ về giá tài sản có thể dễ dàng làm các lập luận này trở nên không phù hợp.

Một trong những lo ngại lớn nhất là tốc độ phát triển đáng kinh ngạc ở trong thành phần ngân hàng ngầm vài năm trở lại đây (tỷ lệ của nó so với GDP đã tăng đến 70 phần trăm trong vòng 5 năm), làm giảm tổng tỉ số lợi nhuận trên nợ (mất $4 nợ để tạo ra $1 trong tăng trưởng GDP), và những dự đoán rằng nhiều sản phẩm tín dụng và trái phiếu công ty sẽ không được thanh toán đúng hạn. Tất cả những vấn đề trên đã đưa đến những suy xét rằng Trung Quốc đang tiến dần đến “thời điểm Minsky”.[1] Nói một cách khác, lượng bong bóng đầu cơ tài chính và sự huy động vốn theo mô hình Ponzi ở trong nền kinh tế đang tiến đến những mức độ không ổn định.

Những sản phẩm của hệ thống ngân hàng ngầm đang sắp đến kỳ hạn thanh toán sẽ cần đầu tư lại hoặc cứu trợ từ phía chính phủ hay ngành ngân hàng truyền thống. Nếu thiếu những biện pháp trên, những gói đầu tư này sẽ vỡ nợ, theo đó làm lung lay tâm lý của các nhà đầu tư trong toàn hệ thống ngân hàng ngầm. Tiếp đến là sự dịch chuyển vốn từ hệ thống ngân hàng ngầm trở về với hình thức ký gửi an toàn ở các ngân hàng truyền thống. Sự thu hẹp lại của ngành ngân hàng ngầm sẽ dễ dẫn tới khủng hoàng tín dụng, do đó tạo ra áp lực nặng nề hơn cho các dự án đầu tư khác phụ thuộc vào nguồn đầu tư từ các ngân hàng ngầm này, kết cục là nhiều sự vỡ nợ hơn.

Kết quả sẽ đặc biệt gây tổn hại đến ngành bất động sản và khai khoáng, cũng như là đến các khoản đầu tư của chính quyền địa phương nơi nhận khoảng 43% số vốn từ các ngân hàng ngầm. Cùng với đó, mặc dù tỉ hội nhập của thị trường tài chính Trung Quốc vào các thị trường tài chính nước ngoài còn thấp, nền kinh tế quốc tế cũng vẫn có thể bị ảnh hưởng. Sự giảm năng suất trong nước của Trung Quốc có thể sẽ dẫn đến tụt giảm nhu cầu nhập khẩu từ các nước có tài nguyên dồi dào. Thêm vào đó, thế giới có thể sẽ phải chịu sụt giảm tăng trưởng GDP toàn cầu, cũng như sự giảm hiệu quả hoạt động của thị trường cổ phiếu và trái phiếu nước ngoài.

Kể cả khi các biện pháp phòng tránh được thực hiện, không có gì có thể bảo đảm làm giảm được tâm lý tiêu cực của các nhà đầu tư đối với hệ thống ngân hàngngầm, kéo theo đó là sự dịch chuyển vốn. Thêm nữa, bất cứ một kế hoạch giải cứu nào cũng sẽ dẫn tới mộtsự hỗ trợ mang tính hệ thống cho cả những doanh nghiệp “ma” làm ăn không có lợi nhuận, làm mất đi những khoản đầu tư vốn có triển vọng hiệu quả.

Tuy nhiên, một sự sụp đổ mang tính hệ thống của nền tài chính không phải là không thể tránh khỏi, và một sự giải cứu thành công do chính phủ hay ngành ngân hàng truyền thốngdẫn dắt là hoàn toàn có thể. Dù vậy, những biện pháp này chỉ mang tính tình thế đối với hệ thống tài chính hiện tại mà không giải quyết được vấn đề cơ bản của ngành ngân hàng ngầm. Tin tốt là trong vài tháng gần đây, chính quyền trung ương đã tiến hành những bước đi sơ bộ để giải quyết những những vấn đề nền tảng trên.

Nhằm gây dựng lại lòng tin, chính phủ đã chính thức công nhận vai trò quan trọng của ngành ngân hàng ngầm trong nền kinh tế Trung Quốc. Điều này có thể sẽ làm tăng mong đợi của các nhà đầu tư rằng chính phủ sẽ đứng ra giúp đỡ khi hệ thống ngân hàng ngầm lâm vào khủng hoảng. Thêm vào đó, nó sẽ giảm thiểu một số lo ngại của các ngân hàng ngầm; do đó, sẽ có ít khả năng các ngân hàng này sẽ hạn chế thanh khoản nếu thị trường xấu đi. Những quy định mới được đưa vào cho phép chính quyền địa phương đảo nợ thông qua phát hành trái phiếu chính phủ. Cùng với đó, Quốc Vụ Viện (tức Chính phủ) đã ban hành một loạt các nguyên tắc, hướng dẫn các nhà điều tiết tạo dựng những quy định mới nhằm tăng độ minh bạch và hạn chế một số hoạt động cho vay nhất định bên trong hệ thống ngân hàng ngầm.

Trong khi việc tăng cường điều tiết là cần thiết, chính phủ cũng nên thận trọng không tạo ra quá nhiều rào cản và hạn chế trong hệ thống này. Quá nhiều quy định có thể ảnh ưởng tiêu cực đến các tổ chức vô hại khác – như một số các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng ngầm đã thận trọng và khôn ngoan hơn trong các hoạt động cho vay.

Hơn nữa, nếu chính phủ hạn chế các hoạt động tạo ra tín dụng ở một phần của hệ thống ngân hàng ngầm, có khả năng nhu cầuvốn sẽ dẫn đến những mánh khóe để lách các quy định này. Chính phủ vì thế nên tập trung cải thiện tính minh bạch trong hệ thống ngân hàng ngầm, phát triển các tổ chức và quy ước nhằm hỗ trợ tốt hơn việc định giá rủi ro, và tự do hóa toàn bộ hệ thống tài chính. Nói một cách ngắn gọn, để giải quyết gọn gẽ nhưng rắc rối tài chính có thể xảy ra, Trung Quốc cần phải minh bạch hóa hệ thống ngân hàng ngầm của nước này.

——————-

[1] “Thời điểm Minsky” (Minsky moment) là sự di chuyển chậm từ trạng thái ổn định sang khủng hoảng của hệ thống tài chính. Thời điểm này được rút ra từ thuyết bất ổn về tài chính do nhà kinh tế học người Mỹ Hyman P.Minsky (1919 – 1996) đề nghị vào thập niên 1970”

Bản gốc tiếng Anh: The Diplomat