#11- Xử lý cuộc khủng hoảng Châu Á: IMF và Hàn Quốc

OB-XG630_bowrin

Nguồn: Corning, Gregory (2000). Managing the Asian Meltdown: The IMF and South Korea. Institute for the Study of Diplomacy School of Foreign Service, Georgetown University, Pew Case Study, 1.

Biên dịch: Lê Thị Mỹ Hương, Châu Ngọc Huyền, Trương Thị Thanh Hiền, Đặng Trang Ngọc Khánh, Lê Hoàng Ngọc Yến, Đỗ Hoài Thương |Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Bài liên quan: #52 – IMF: Phương thuốc hay tai họa?

Cuộc chiến tranh Triều Tiên kết thúc vào năm 1953 đã gây nhiều thiệt hại cho Hàn Quốc. Hơn ¼ dân số quốc gia gồm 20 triệu người đã trở thành những người tị nạn vô gia cư và vô tài sản. Việc phục hồi sau chiến tranh đặc biệt khó khăn do sự phân chia bán đảo Triều Tiên với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên nắm giữ hầu hết nguồn tài nguyên thiên nhiên và những cở sở hạ tầng về công nghiệp. Tuy nhiên, hơn 40 năm qua, Hàn Quốc đã phát triển với tỉ lệ tăng trưởng ngoạn mục khi theo đuổi một chính sách phát triển năng động có sự can thiệp của chính phủ. Là một trong bốn con hổ châu Á, Hàn Quốc trở thành một nhà sản xuất tàu, ô tô, hệ thống chip điện tử lớn.

Vào giữa những năm 1980, các tập đoàn Hàn Quốc như Huyndai, Samsung, Lucky- Goldstar đã bắt đầu tiến hành những đợt lấn chiếm sâu vào thị trường Mỹ. Tổng sản phẩm quốc gia của Hàn Quốc tăng lên với một tỉ lệ đáng kinh ngạc, đạt 11,6% vào năm 1986 và 12,5% vào năm 1987, cả hai năm đều giữ kỉ lục toàn cầu. Hàn Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 7 của Mỹ và nhanh chóng trở thành nền kinh tế lớn thứ 11 thế giới. Nhưng chỉ một thập kỉ sau đó, Hàn Quốc rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chính hết sức tồi tệ.

Vào ngày 3/12/1997, Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF đã chấp nhận bỏ ra 57 tỉ đô la giúp Hàn Quốc thoát khỏi cơn khủng hoảng. Đây là khoản tiền lớn nhất trong số các khoản tiền mà IMF đã từng giúp đỡ các nước. Các điều kiện trong gói giải cứu của IMF khiến Hàn Quốc phải tiến hành những cải cách đầy đau đớn và làm cho nền kinh tế Hàn Quốc bị thu hẹp đáng kể. Đến tháng 4/1998, tỉ lệ thất nghiệp của Hàn Quốc tăng lên 8.5%, hơn năm trước đó 2.5%. Điều này có nghĩa là khoảng 10.000 công nhân đang bị mất việc mỗi ngày. Tỉ lệ phá sản ở các doanh nghiệp nhỏ tăng lên đến mức kỉ lục, ít nhất mỗi ngày có một chủ doanh nghiệp nhỏ đã phải tự tử. Cuộc khủng hoảng mang lại cho những người Hàn Quốc một ý thức mạnh mẽ về chủ nghĩa dân tộc, họ hạn chế nhập khẩu hàng hóa và ra sức phê phán sự can thiệp của IMF vào nền kinh tế quốc gia. Khi tình trạng sa thải công nhân tăng lên, liên minh các nghiệp đoàn Hàn Quốc đã xuống đường biểu tình với những bảng khẩu hiệu như “IMF= I Am Fired”. Các tập đoàn lớn như Samsung và Daewoo yêu cầu nhân viên của mình bán những món đồ trang sức của họ để giúp đất nước tăng ngoại tệ và thanh toán hết nợ. Trong khi đó, những chiếc xe hơi được nhập khẩu vào Hàn Quốc và những người sở hữu chúng đã trở thành mục tiêu cho những nhóm nổi loạn. Hàn Quốc đã bị tuột dốc từ nền kinh tế lớn thứ 11 xuống thứ 17 thế giới chỉ trong vòng vài tuần. Vậy điều này đã xảy ra như thế nào? Tự bản thân Hàn Quốc phải chịu trách nhiệm hay chỉ đơn giản rằng quốc gia này là nạn nhân của một cú sốc kinh tế bên ngoài? Phản ứng phù hợp đối với cuộc khủng hoảng này là gì? Và những quốc gia khác có trách nhiệm hay lợi ích tự thân gì không trong việc giúp phục hồi nền kinh tế của Hàn Quốc?

1.  Hàn Quốc và “điều thần kỳ kinh tế Châu Á”

Từ năm 1965 đến năm 1990, Đông Á đã phát triển nhanh hơn Mỹ  Latinh gấp 3 lần và gấp 25 lần so với khu vực Châu Phi hạ Sahara. Nguyên nhân chính của thành tựu này là sự tăng trưởng của tám nền kinh tế trong khu vực, bao gồm Nhật Bản; Bốn con hổ châu Á gồm Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan; và những nước công nghiệp mới (NICs) ở Đông Nam Á như Indonexia, Malaysia và Thái Lan. Nền kinh tế Nhật Bản là nền kinh tế đầu tiên cất cánh vào những năm 1950, tiếp theo đó là Bốn con hổ châu Á vào những năm 1960 và các nước công nghiệp mới Đông Nam Á vào những năm 1970. Mặc dù sự tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản đã chậm lại sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, nhưng các nền kinh tế khác của khu vực vẫn tiếp tục bùng nổ vào giữa những năm 1990 với tỉ lệ lạm phát thấp và mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt gần 10% tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Những nền kinh tế này đã thành công ở những mức độ khác nhau trong việc tạo ra những môi trường kinh doanh thuận lợi, thông qua những chính sách nhấn mạnh sự ổn định nền kinh tế vĩ mô và các cấu trúc tài chính và pháp lý khuyến khích đầu tư tư nhân. Họ cũng đã hỗ trợ sự tích lũy tư bản và vốn con người thông qua đầu tư vào giáo dục và những chính sách khuyến khích tiết kiệm. Một số quốc gia trong số này cũng đã hướng sự phát triển kinh tế theo mô hình có sự can thiệp của chính phủ. Các nhà quản lý kinh tế cố gắng định hình các mô hình đầu tư và sản xuất để giúp những công ty quốc gia có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Mặc dù vẫn còn những bất đồng về tác động của những tác nhân giải thích cho sự tăng trưởng này, nhưng cũng có những sự đồng thuận rõ ràng rằng những quốc gia này đã tạo nên sự tiến bộ tuyệt vời, vượt trội trong một khoảng thời gian ngắn. Có thể nói rằng, không nơi nào có sự tăng trưởng kinh tế thời kì hậu chiến tranh gây ấn tượng hơn Hàn Quốc.

Sự trỗi dậy của Hàn Quốc

Hàn Quốc là một nạn nhân của cả chủ nghĩa đế quốc và cuộc Chiến tranh lạnh. Từ năm 1910 đến năm 1945, Triều Tiên là thuộc địa của Nhật. Mặc dù quá trình thực dân hóa đã mang lại không ít sự phát triển về cơ sở hạ tầng cho công nghiệp và nông nghiệp nhưng nó cũng gây nên sự đàn áp nặng nề về ngôn ngữ bản xứ, tôn giáo, lịch sử và văn hóa. Thất bại trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã kết thúc sự chiếm đóng của Nhật Bản ở Triều Tiên. Tuy nhiên, bán đảo đã bị phân chia giữa những nhà lãnh đạo ủng hộ chủ nghĩa cộng sản ở phía Bắc và những nhà lãnh đạo được Mỹ ủng hộ ở phía Nam. Cuối cùng, những căng thẳng giữa hai phe đã khơi mào cho một cuộc nội chiến khi 90.000 người thuộc quân đội nhân dân Bắc Triều Tiên, được trang bị hầu hết vũ khí từ Liên Xô, đã tấn công vào phía Nam vào ngày 25/6/1950. Tháng 6/1950, quân đội của Liên Hiệp Quốc dưới sự chỉ huy của đại tướng Douglas MacArthur đã tham gia vào cuộc chiến tranh – ủng hộ Nam Triều Tiên vào tháng 6/1950, và 5 tháng sau đó, Trung Quốc cũng tham chiến bên phía Bắc Triều Tiên. Sau 3 năm, cuộc xung đột đi đến bế tắc, hiệp định đình chiến được kí kết vào ngày 27/7/1953, chính thức hóa sự phân chia giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên. Tuy có nền văn hóa và lịch sử chung nhưng hai bên từ đó đến nay vẫn duy trì hiệp định đình chiến một cách khó khăn.

Hàn Quốc đã không phát triển nhanh ngay trong những năm ngay sau cuộc chiến tranh Triều Tiên. Gần như một thập kỉ đã bị đánh mất dưới sự lãnh đạo của Syngman Rhee – một người hùng trong phong trào độc lập kháng Nhật- người đã duy trì quyền lực thông qua một hệ thống độc tài sống bằng việc thao túng viện trợ của Mĩ. Sự tăng trưởng ấn tượng của nền kinh tế Hàn Quốc hiện đại chỉ xuất hiện sau khi Park Chung Hee lên cầm quyền thông qua một cuộc đảo chính vào năm 1961. Phải đối mặt với sự suy giảm nguồn viện trợ của Mỹ và nhu cầu thiết lập địa vị lãnh đạo hợp pháp trong nước, Park đã tập trung vào phát triển nền kinh tế.

Park đã thực hiện một chính sách kinh tế tập trung cao độ mang dấu ấn cá nhân. Đầu tiên, ông đã kiểm soát quyền tiếp cận tín dụng bằng cách quốc hữu hóa tất cả các ngân hàng. Luôn thận trọng trước những ảnh hưởng của nước ngoài, chính phủ đã luôn dựa vào các khoản vay hơn là mở cửa thu hút các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ hai, ông đã tập trung hóa việc lên kế hoạch, ngân sách và giám sát các chính sách kinh tế thông qua một bộ máy quan liêu chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp cho Park. Thứ ba, ông tăng cường sự liên kết giữa giới quân sự và một nhóm nhỏ những doanh nghiệp thành công, dùng đó làm phương tiện để thúc đẩy phát triển kinh tế đồng thời củng cố quyền lực. Park đã sử dụng các tập đoàn gia đình lớn, gọi là các chaebol, làm công cụ chính thúc đẩy tăng trưởng. Chính vì nhà nước kiểm soát tiếp cận đối với tín dụng, các chaebol này nhanh chóng thống trị nền kinh tế. Trong suốt những năm 1970, các chaebol đã mở rộng và xâm nhập vào các ngành công nghiệp quan trọng. Từ năm 1972 đến năm 1979, trung bình số công ty được sở hữu bởi 10 chaebol lớn nhất tăng từ 7,5 lên 25,4. Trong khi đó, trung bình số ngành công nghiệp mà họ tham gia kinh doanh tăng từ 7,7 lên 17,6. Sự mở rộng của các chaebol được cung cấp tài chính thông qua các khoản vay quy mô lớn do nhà nước bảo lãnh. Thật vậy, hầu hết các chaebol đều vay mượn vượt quá giá trị tài sản chủ sở hữu. Mặc dù tỉ lệ nợ so với tài sản ở mức 2:3 không phải hiếm ở các công ty phương Tây thì  trong suốt những năm 1970, tỉ lệ lên tới 4:1 cũng rất phổ biến đối với các chaebol.

Park bị ám sát vào năm 1979. Hai tháng sau, Chun Doo Hwan lên cầm quyền trong một cuộc đảo chính quân sự khác. Ban đầu, chính phủ của Chun phải đối mặt với những vấn đề kinh tế hết sức nghiêm trọng. Những khoản nợ từ chương trình công nghiệp nặng hóa của Park vào những năm 1970, sự suy thoái từ sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1979, và mùa màng thất bát đã khiến kinh tế suy thoái mạnh. Tổng sản phẩm quốc gia (GNP) giảm 5,2% vào năm 1980, nhưng với sự giúp đỡ của một chương trình thắt lưng buộc bụng do IMF bảo trợ, nền kinh tế đã nhanh chóng lấy lại sự ổn định. Để tài trợ cho sự tăng trưởng và điều chỉnh nền kinh tế, Hàn Quốc đã vay mượn rất nhiều từ thị trường vốn quốc tế, trở thành nước mắc nợ nhiều thứ tư trong số các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các ngân hàng nước ngoài đã không hề e ngại vì thành tích xuất khẩu của Hàn Quốc liên tục được cải thiện. Sự tăng giá của đồng Yên Nhật theo sau hiệp ước Plaza được kí kết vào năm 1985 đã giúp hạ giá các hàng xuất khẩu của Hàn Quốc so với hàng hóa của Nhật Bản. Điều này đã khởi đầu cho thời kỳ bùng nổ xuất khẩu của các chaebol khi TV và đầu VCR được sản xuất bởi Daewoo và Lucky Goldstar bắt đầu xuất hiện ở các gian hàng của Mỹ, và các loại xe ô tô của Huyndai bắt đầu cạnh tranh với những mẫu xe hạng thấp của Toyota và Nissan. Một thập kỉ trước, các khách hàng Mỹ không biết đến hàng hóa Hàn Quốc, thì nay các thương hiệu của Hàn Quốc đã ngày càng trở nên quen thuộc với người Mỹ. Việc chọn Seoul làm chủ nhà của Olympic mùa hè năm 1988 biểu tượng cho việc thừa nhận sự nổi lên của Hàn Quốc với tư cách là một quốc gia công nghiệp tiên tiến.

Sự phát triển của Hàn Quốc trở thành một quốc gia chế tạo lớn đã làm tăng sức ép từ nước ngoài lẫn trong nước đối với việc mở rộng tự do kinh tế. Đối mặt với khối lượng xuất khẩu ngày càng tăng của Hàn Quốc, các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, đã ép Hàn Quốc tăng cường nhập khẩu và mở cửa cho đầu tư nước ngoài. Trong một nỗ lực nhằm nắm quyền kiểm soát các chaebol, chính quyền Chun đã tư hữu hóa hệ thống ngân hàng, giảm việc “cho vay theo chính sách” đối với các khu vực chiến lược, buộc các chaebol phải tái cơ cấu, tập trung vào các lĩnh vực kinh doanh chủ chốt. Tuy nhiên, việc tự do nền kinh tế tiến triển chậm chạp, một phần vì quá nhiều thời gian và sức lực được dành cho việc tự do hóa chính trị.

Sau khi chính quyền Chun bước khỏi vũ đài chính trị vào năm 1988, các chính quyền dân sự của Roh Tae Woo (1988 – 93) và Kim Young Sam (1993 – 98) đã theo dõi từng bước sự mở cửa hệ thống chính trị với kết quả cuối cùng là việc bầu nhà hoạt động dân chủ lâu năm Kim Dae Jung làm tổng thống vào tháng 12/1997. Thập kỷ này được ghi dấu bởi những nỗ lực khó khăn trong việc chấp nhận những sự vi phạm nhân quyền của các chế độ Park và Chun, cũng như những nỗ lực không thành nhằm tước bỏ các chaebol và các nghiệp đoàn những đặc quyền từ thời kỳ công nghiệp hóa của Park. Các chaebol chủ chốt đã trở nên quá lớn đến mức các ngân hàng ít khi dám từ chối tín dụng cho các chaebol này. Đối với các chaebol, càng nhiều tài sản đồng nghĩa với càng nhiều tài sản bảo đảm cho các khoản vay ngân hàng vốn được sử dụng để mua thêm thậm chí nhiều tài sản hơn nữa. Một vài chaebol quá lớn và tuyển dụng quá nhiều người khiến chính quyền dường như không dám để chúng sụp đổ. Chính môi trường mở rộng không được kiểm soát này có lợi cho các công nhân, những người trở nên quen thuộc với những bảo đảm có việc làm suốt đời.

2.  Từ điều thần kỳ đến khủng khoảng

Nền kinh tế Hàn Quốc vào giữa thập niên 1990

Thậm chí trước khi nỗi hoang mang bắt đầu quét qua Châu Á vào tháng 7/1997, nền kinh tế Hàn Quốc đã bắt đầu gặp phải một số vấn đề. Đầu tiên là sự phá sản vào tháng 1/1997 của tập đoàn Hanbo, chaebol lớn thứ mười bốn của Hàn Quốc. Tại thời điểm giá thép giảm và sản xuất dư thừa tại Hàn Quốc, số nợ của công ty sản xuất thép của Hanbo đã lên đến 4,39 tỉ đô la Mỹ – gấp 22 lần giá trị tài sản của công ty này – khoản tiền vốn được vay để xây dựng một nhà máy thép mới. Việc phá sản của công ty thép Hanbo đã dẫn tới sự sụp đổ của bốn nhóm công ty khác và có nguy cơ khiến Korea First, một trong những ngân hàng lớn nhất của quốc gia, sụp đổ. Các công tố viên đã truy tố hơn mười người, bao gồm bốn thành viên quốc hội và các lãnh đạo của tập đoàn Hanbo và Korea First, về tội tham nhũng và các cáo buộc khác liên quan đến sự sụp đổ của các chaebol. Trước sự tức giận của giới truyền thông cùng sự giám sát gắt gao của chính phủ, thêm tám trong số ba mươi chaebol dẫn đầu của Hàn Quốc đã phá sản, bao gồm cả Kia Motors.

Sự sụp đổ của nhiều chaebol trong một khoảng thời gian ngắn như vậy cho thấy một vấn đề thứ hai sâu sắc hơn trong hệ thống tài chính của Hàn Quốc. Từ kỷ nguyên của Park với việc cho vay theo chính sách bởi các ngân hàng quốc doanh, khu vực tài chính đã hoạt động dựa trên cơ sở một hệ thống thân quen gọi là “cho vay kết nối” chứ không dựa vào các phán xét độc lập về rủi ro tín dụng và dòng tiền dự kiến của người vay. Trong nhiều thập kỷ, các tổ chức tài chính phương Tây đã mong muốn kiếm được lợi nhuận nhất định bằng cách cho các ngân hàng Hàn Quốc vay để giúp đỡ cho sự bùng nổ kinh tế ở đất nước này. Đến lượt mình, các ngân hàng Hàn Quốc hăm hở cho các chaebol đói vốn vay để tập trung vào việc mở rộng các ngành kinh doanh mới. Việc các ngân hàng chấp nhận cho các chaebol duy trì một tỉ lệ nợ so với tài sản cao như vậy dẫn đến sự tích tụ các khoản nợ nước ngoài đáng kể ở Hàn Quốc. Đến cuối năm 1996, tổng nợ nước ngoài của Hàn Quốc xấp xỉ 180 tỉ USD, trong đó 130 tỉ USD đến hạn phải trả trong vòng một năm. Mặc dù đáng kể, số tiền này không quá lớn theo tiêu chuẩn toàn cầu để khiến thị trường tài chính quốc tế phải lo lắng. Tuy nhiên, hàng loạt các chaebol phá sản trong năm 1997 đồng nghĩa với việc một tỉ lệ gia tăng trong số nợ đó sẽ trở thành những khoản nợ xấu, khó có khả năng được hoàn trả.

Diễn biến thứ ba báo hiệu những vấn đề tương lai là thâm thụt tài khoản vãng lai của Hàn Quốc gia tăng. Tài khoản vãng lai dùng để đánh giá tác động của cách các giao dịch quốc tế đến thu nhập hiện tại, có thể được xem như tài khoản thanh toán của một quốc gia. Nó gồm 4 phần chính: (1) xuất nhập khẩu hàng hóa, (2) xuất nhập khẩu dịch vụ, (3) đầu tư và các khoản thanh toán thu nhập, và (4) xuất nhập khẩu của chính phủ và viện trợ nước ngoài. Nguyên nhân sâu xa của sự tăng thâm hụt cán cân vãng lai ở Hàn Quốc là do xuất khẩu tăng chậm lại. Năm 1995, xuất khẩu Hàn Quốc tăng 30%, trong khi vào năm 1996 chỉ tăng 4%. Sự giảm sút này bắt nguồn từ một số yếu tố bên ngoài bao gồm việc giảm giá đồng Yên, một chu kỳ dư thừa trong nền công nghiệp điện tử toàn cầu, và sự cạnh tranh gia tăng của hàng xuất khẩu đến từ Trung Quốc vốn có chi phí nhân công thấp hơn.

Nói tóm lại, sự sụp đổ của tập đoàn Hanbo đã làm tăng sự lo lắng về tình hình của một vài chaebol và sự phụ thuộc vào các “khoản vay kết nối” trong hệ thống tài chính Hàn Quốc. Thêm vào những sức ép này là sự suy thoái của khu vực xuất khẩu. Tuy nhiên, dường như chính phủ Hàn Quốc lẫn các nhà đầu tư quốc tế đều không hề nghi ngờ về các yếu tố cơ bản của mô hình kinh tế Hàn Quốc. Đến tháng 6/1997, thị trường chứng khoán Hàn Quốc đang trên đà ổn định, tỷ giá hối đoái Won – Đô la tương đối bình ổn, và vốn quốc tế tiếp tục chảy vào Hàn Quốc. Tuy nhiên, tình trạng này thay đổi đáng kể trong vài tháng tiếp theo khi một cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Thái Lan lan rộng ra khắp Châu Á.

Căn bệnh truyền nhiễm Châu Á

Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á bắt đầu từ Thái Lan vào mùa hè năm 1997. Xét trên nhiều tiêu chí, tình hình Thái Lan tương đối tốt. Kinh tế tăng trưởng gần 10% mỗi năm trong một thập kỷ, lạm phát thấp và ngân sách thặng dư. Tuy nhiên, mức tăng trưởng ấn tượng cùng với những quy định kế toán lỏng lẻo đã ngụy trang cho những món nợ nước ngoài ngày càng phình to. Mong muốn tận dụng các cơ hội tăng trưởng ở Thái Lan, các nhà đầu tư nước ngoài thi nhau bơm tiền vào nước này. Tuy nhiên, theo thời gian, các quỹ này ngày càng dồn vào các khoản đầu tư mang tính đầu cơ trong những lĩnh vực như bất động sản. Tới năm 1997, các ngân hàng Thái Lan đã nắm giữ 15 tỉ đô la những khoản nợ xấu của các nhà đầu tư bất động sản. Việc giảm tốc độ xuất khẩu suốt năm 1997 đã làm suy yếu khả năng của các doanh nghiệp Thái Lan trong việc trả nợ. Sự lo ngại ngày càng tăng về khả năng những doanh nghiệp này tuyên bố vỡ nợ làm tăng nguy cơ đồng Baht bị mất giá. Nhưng chính quyền Thái Lan lo sợ rằng việc đồng Baht mất giá nhiều hơn sẽ làm tăng chi phí vay nước ngoài và làm gia tăng gánh nặng nợ nần của những công ty đã vay bằng ngoại tệ. Trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm nâng giá đồng nội tệ, chính phủ Thái Lan đã rút hết những khoản dự trữ ngoại tệ của mình để mua vào đồng Baht trên thị trường tiền tệ quốc tế. Khi việc này thất bại, Ngân hàng trung ương Thái Lan không còn lựa chọn nào nữa và đồng Baht mất giá thê thảm hơn 40% trong vòng một tháng.

Trong vài ngày, đồng ringgit của Malaysia cũng phải chịu sức ép. Cũng như Thái Lan, Malaysia đã chứng kiến sự bùng nổ đầu cơ đi kèm với những món nợ lớn. Tuy nhiên hệ thống ngân hàng của nước này được quản lý tốt hơn và Malaysia dựa vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều hơn so với các khoản vay, giúp cho nền kinh tế ít bị tổn thương hơn trước các đợt rút vốn ồ ạt. Đổ lỗi cuộc khủng hoảng là do “các nhà đầu cơ bất hảo” và “những nhà tài phiệt Do Thái”, chính phủ có tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cao độ của thủ tướng Mahathir Mohammed đã từ chối tìm kiếm sự giúp đỡ từ IMF. Khi Malaysia nỗ lực hết sức để bảo vệ đồng ringgit, đồng rupiah của Indonesia cũng bị tấn công mạnh mẽ. Sau một cố gắng tuyệt vọng để nâng giá đồng rupiah, Ngân hàng Indonesia cuối cùng đã phải thả nổi đồng nội tệ vào giữa tháng Tám. Trong vòng hai tháng tiếp theo, giá trị của đồng rupiah giảm hơn 30%, buộc Indonesia phải tìm đến IMF để được giúp đỡ vào tháng 10. Ba quốc gia Đông Nam Á đã sụp đổ như những con cờ domino chỉ trong vòng 3 tháng.

Cơn bão khủng hoảng Châu Á di chuyển lên phía Bắc khi thị trường tài chính bắt đầu theo dõi Hồng Kông một cách chặt chẽ hơn. Trên nhiều phương diện, nền kinh tế Hồng Kông đang trong tình trạng tốt hơn các quốc gia Đông Nam Á. Nhưng khi Hồng Kông tăng lãi suất để bảo vệ đồng tiền của mình trước nguy cơ tấn công tiền tệ, các nhà đầu tư lại lo sợ về khả năng phá giá đồng tiền, và thị trường chứng khoáng đã sụp đổ. Sự lao dốc ngày 23/10 của thị trường chứng khoáng Hồng Kông đã xóa sạch 29,3 tỉ đô la khỏi giá trị các cổ phiếu, gây nên những cú sốc trên thị trường quốc tế. Bốn ngày sau đó, chỉ số Dow Jones Industrial Average giảm 554 điểm, và tại thời điểm đó, đây là số điểm bị mất lớn nhất chỉ trong một ngày.

Bên cạnh tác động trực tiếp lên thị trường chứng khoán trên toàn thế giới, cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á còn làm nổi lên một số mối quan ngại về an ninh và kinh tế rộng lớn hơn. Trước tiên, các ngân hàng Mỹ, Châu Âu, và Nhật Bản phải đối mặt với viễn cảnh các khoản nợ xấu trị giá hàng chục tỷ đô la của các chaebol Hàn Quốc. Nguy cơ vỡ nợ gây lo ngại nhiều nhất cho các ngân hàng Nhật Bản, vốn là chủ nợ lớn của khu vực. Nhật Bản vẫn đang phải cố gắng đối phó với cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng yếu ớt của mình xảy ra sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng vào năm 1989. Thứ hai, cuộc khủng hoảng châu Á còn tác động tới hệ thống thương mại; các thị trường xuất khẩu của các công ty Mỹ và Châu Âu ở Đông Á có thể thu hẹp trong khi việc đồng won bị phá giá và những nỗ lực tuyệt vọng của các chaebol nhằm tăng doanh số bán hàng có thể dẫn đến việc giá xuất khẩu các mặt hàng của Hàn Quốc giảm mạnh. Cuối cùng, xuất hiện những mối lo ngại cho rằng cuộc khủng hoảng tiền tệ có thể làm suy yếu nền dân chủ non trẻ của Hàn Quốc và Đài Loan, làm phức tạp thêm sự chuyển tiếp quyền lãnh đạo ở Indonesia, và dẫn đến những căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên vốn có thể gây bất ổn cho toàn khu vực.

Khủng hoảng đổ bộ vào Hàn Quốc

Khi cuộc khủng hoảng Châu Á lan rộng lên phía Bắc, các nhà đầu tư lo sợ bắt đầu theo dõi Hàn Quốc một cách sát sao. Hệ thống tài chính yếu kém của Hàn Quốc, các khoản nợ khổng lồ của các ngân  hàng Hàn Quốc và các chaebol, và thâm hụt tài khoản vãng lai ngày càng xấu đi của Hàn Quốc bây giờ được coi là tồi tệ hơn nhiều so với một vài ngày ngắn ngủi trước đó. Các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút khỏi thị trường chứng khoán Hàn Quốc càng nhanh càng tốt. Sự tháo chạy ồ ạt của các nguồn vốn đã đẩy đồng won Hàn Quốc xuống thấp kỷ lục mỗi ngày; tình trạng rơi tự do của đồng won chỉ được kìm hãm nhờ sự hạn chế lưu chuyển đồng tiền hàng ngày. Ngân hàng trung ương Hàn Quốc đã can thiệp sâu vào thị trường tiền tệ bằng cách mua đồng won để nâng giá trị của đồng tiền. Nhưng nỗ lực này chỉ mang lại kết quả rất khiêm tốn và làm cạn kiệt nguồn dự trữ ngoại tệ của nhà nước. Khi đồng won tiếp tục xuống dốc, Hàn Quốc nhận thấy rằng họ cần có sự giúp đỡ về mặt tài chính. Đầu tiên, họ tìm đến các nguồn vốn của Nhật Bản và Mỹ. Tuy nhiên, cả hai nước này đều không sẵn lòng giúp đỡ nếu Hàn Quốc không nhờ đến IMF trước tiên.

Hàn Quốc muốn tránh IMF vì hai bên nhận thức khác nhau về nguồn gốc của cuộc khủng hoảng. Hàn Quốc chỉ đơn giản cho rằng họ là nạn nhân của cuộc khủng hoảng châu Á. Các nhà đầu tư bắt đầu lo sợ về Hàn Quốc bởi các nền kinh tế khác trong khu vực đang lâm vào khó khăn. Khi các nhà đầu tư bắt đầu rút khỏi Hàn Quốc, đồng won cũng bắt đầu mất giá. Vì biết rằng họ sẽ chịu nhiều thiệt hại nếu tiếp tục ở lại nên nhiều nhà đầu tư đã rút khỏi thị trường Hàn Quốc. Vì vậy, khủng hoảng đến từ nhận thức của nhà đầu tư hơn là từ bất cứ điều gì khác. Theo nhận định của IMF, cuộc khủng hoảng Châu Á có nguyên nhân kết hợp từ sự mất cân bằng trong nền kinh tế vĩ mô và những vấn đề cấu trúc nền tảng, trong đó có sự yếu kém bám rễ sâu trong các thể chế tài chính và việc thiếu giám sát hệ thống ngân hàng. Seoul cũng biết rằng sự giúp đỡ của IMF sẽ kèm những điều kiện về việc tái cơ cấu ngành ngân hàng và các công ty. Điều đó sẽ phá hủy mô hình phát triển của Hàn Quốc.

Vào giữa tháng 11/1997, Giám đốc Điều hành của IMF, Michel Camdessus và nhà đàm phán phụ trách Châu Á, Hubert Neiss, đã đến Hàn Quốc và bắt đầu những cuộc thương luợng bí mật với chính phủ Hàn Quốc. Sợ rằng tin tức về các cuộc thương lượng có thể bị tiết lộ và kích động sự lo lắng trên thị trường tài chính thế giới, họ đã nhận phòng bằng hai cái tên Hàn Quốc trong một khách sạn ở ngoại ô thành phố Seoul và dùng bữa ngay trong phòng. Vào ngày 21/11, Hàn Quốc đã đề nghị IMF giúp đỡ 20 tỷ USD. Trong vòng một tuần, Seoul đã tăng đề nghị của họ lên trên 50 tỷ USD. Nhưng đất nước này vẫn miễn cưỡng trong việc chấp nhận các điều kiện mà IMF đề ra. Khi Camdessus quay trở lại Hàn Quốc vào đầu tháng 12, Thứ trưởng Bộ Tài chính đã ra đón ở sân bay và trao cho ông lịch làm việc trong ngày. Chương trình làm việc gồm có 45 phút đàm phán, một cuộc gặp ngắn với Tổng thống và sau đó là lễ ký kết. Để chống lại những nổ lực của Hàn Quốc trong việc lên chương trình làm việc, Camdessus đã nhanh chóng yêu cầu đàm phán thêm. Tin tức về sự thất bại của những cuộc thương lượng đã đẩy thị trường xuống thấp hơn nữa. Bị dồn vào chân tường, chính phủ Hàn Quốc đã không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận những điều kiện của IMF.

3. Xử lý cuộc khủng hoảng

Gói cứu trợ của IMF

Chi tiết về khoản cho vay lên tới 57 tỷ USD của IMF đã được công bố vào ngày 3/12/1997. Các bên cam kết đóng góp số tiền như sau: IMF (21 tỷ USD), Ngân hàng Thế giới (10 tỷ USD), Ngân hàng Phát triển Châu Á (4 tỷ USD), Nhật Bản (10 tỷ USD), Mỹ (5 tỷ USD), Anh, Pháp, Đức và Italy (mỗi nước 1,25 tỷ USD). IMF sẽ cung cấp khoản giải ngân ban đầu của gói cứu trợ, trong khi các cam kết của Mỹ và các nước khác sẽ là phụ trợ và được giải ngân khi cần thiết. Gói cứu trợ này không phải nhằm thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của Hàn Quốc. Mục đích của nó là để khôi phục lại nguồn dự trữ ngoại tệ của Hàn Quốc nhằm củng cố lòng tin của các chủ nợ, như các ngân hàng của Nhật Bản và các công ty quỹ của Mỹ. Từ đó, họ sẽ giãn nợ đối với các khoản vay ngắn hạn của Hàn Quốc.

Khoản giải ngân ban đầu từ gói cứu trợ đi kèm điều kiện là Hàn Quốc phải thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt như tăng thuế, tăng lãi suất và giảm chi tiêu của chính phủ. Sự kết hợp giữa thuế cao và giảm chi tiêu là nhằm giảm thâm hụt tài khoản vãng lai và để dành tiền phục vụ việc tái cơ cấu nền kinh tế. Tỷ lệ lãi suất cao là nhằm khôi phục lòng tin vào đồng won Hàn Quốc bằng cách làm cho nó hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, tỷ lệ lãi suất cao lại có nhược điểm là làm cho tình trạng yếu kém của các chaebol và các ngân hàng thêm tồi tệ bởi vì nó làm tăng chi phí của các khoản vay. IMF cũng yêu cầu cải cách cơ cấu, bao gồm yêu cầu Hàn Quốc phải: (1) cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tự do hơn trong việc mua cổ phần và nắm tỉ lệ chi phối trong các công ty Hàn Quốc; (2) mở cửa hơn nữa thị trường tài chính nội địa cho các ngân hàng và các công ty bảo hiểm nước ngoài; (3) yêu cầu các ngân hàng cho vay phải áp dụng các tiêu chuẩn định giá tín dụng của phương Tây, không được theo mệnh lệnh của chính phủ; (4) đóng cửa các ngân hàng vỡ nợ; (5) cải cách bộ luật lao động nhằm làm cho việc sa thải công nhân dễ dàng hơn và làm cho thị trường lao động thông thoáng hơn; và (6) mở cửa thị trường nội địa cho hàng nhập khẩu bằng cách phá bỏ các rào cản và giảm thuế.

Các cuộc cải tổ này đã dẫn đến một sự biến đổi căn bản trong mô hình nền kinh tế Hàn Quốc. Mặc dù, IMF không đề cập đến tương lai của các chaebol, nhưng các cuộc cải tổ được đưa ra nhằm chấm dứt hệ thống cho vay quá mức theo mệnh lệnh của chính phủ của các ngân hàng và vị trí độc tôn của chaebol trong nền kinh tế. Bằng cách yêu cầu các ngân hàng áp dụng các tiêu chuẩn định giá tín dụng của phương Tây, các cuộc cải tổ còn hạn chế các khoản vay cho việc mở rộng của các chaebol. Chúng cũng chấm dứt thông lệ là các công ty mạnh trong một chaebol vay dùm cho các thành viên yếu hơn trong cùng chaebol. Trong khi việc mở cửa lĩnh vực tài chính cho các ngân hàng và các công ty bảo hiểm nước ngoài là để đẩy nhanh việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế vào hệ thống tài chính thì việc phá bỏ các rào cản nhập khẩu và cắt giảm hàng rào thuế quan là nhằm mục đích chấm dứt tình trạng độc quyền của các chaebol trong nền kinh tế nội địa. Các lĩnh vực khác như ngành công nghiệp ô tô đã từng đóng cửa đối với hàng nhập khẩu thì nay sẽ được trải nghiệm sự khắc nghiệt của môi trường cạnh tranh quốc tế.

Những thay đổi như vậy nhiều khả năng sẽ mang lại hiệu quả cao hơn và nhiều lựa chọn hơn cho người tiêu dùng, nhưng cũng có thể phá vỡ cơ cấu xã hội của quốc gia với sự sụp đổ của thêm nhiều chaebol và các nhà thầu phụ của họ, đồng thời chấm dứt đảm bảo có việc làm suốt đời mà hàng triệu công nhân Hàn Quốc đã được hưởng. Cốt lõi vấn đề không chỉ đơn giản là việc xóa bỏ một vài nhà tư bản lũng đoạn mà còn là cuộc sống thường nhật của công nhân và người tiêu dùng.

Thật không dễ dàng để các nhà lãnh đạo Hàn Quốc có thể từ bỏ những yếu tố cơ bản của một mô hình đã hoạt động rất thành công trong một thời gian dài. Trong nhiều tuần tiếp sau đó, Hàn Quốc dường như đã đi từ sự phản kháng đến lưỡng lự và cuối cùng là cắn răng chấp nhận. Tuy nhiên, các quan chức Hàn Quốc nhận thấy rằng quyền ép buộc cải cách của IMF sẽ không tồn tại nữa một khi IMF hoàn thành việc giải ngân các khoản vay quan trọng trong năm đầu tiên. Theo một quan chức của Bộ Tài chính, “tất cả ảnh hưởng của IMF sẽ không còn trong năm tới nếu nói về các khoản tiền. Sau đó, IMF sẽ cho vay 250 triệu USD mỗi quý. Không đáng kể!” Nói cách khác, Hàn Quốc có thể gạt IMF ra trong tương lai và tiến hành các cuộc cải cách theo ý mình.

Kết quả tức thì của gói cứu trợ của IMF không khả quan. Đồng won vẫn tiếp tục đi xuống khi các chaebol vốn đã vay bằng ngoại tệ nay cần phải bán đồng won mua ngoại tệ để trả nợ. Điều này càng kéo giá trị đồng won đi xuống và làm niềm tin vào nền kinh tế Hàn Quốc bị xói mòn hơn nữa. Tuần ngay sau khi gói cứu trợ của IMF được công bố trở thành tuần tồi tệ nhất trong lịch sử thị trường tài chính Hàn Quốc khi đồng won sụt giá thêm 27% so với đồng USD. Sự rối loạn về mặt tài chính đã làm tê liệt hàng loạt các ngân hàng và các doanh nghiệp, đẩy người tiêu dùng vào một tình trạng hoang mang. Sự thiếu hụt nghiêm trọng đồng USD đã làm cho các ngân hàng không có khả năng thanh toán các thư tín dụng – tức cam kết thanh toán cho người bán sau khi hàng được giao. Các thư tín dụng rất thiết yếu, giúp các hoạt động thương mại quốc tế được trôi chảy; không có các giao dịch tài chính này, Hàn Quốc không có khả năng thu được lợi nhuận cần thiết từ xuất khẩu để khôi phục lại nguồn cung đồng USD của họ. Việc thiếu hụt nguồn vốn trong thị trường tiền tệ Hàn Quốc đã đẩy tỷ lệ lãi suất lên tới 25%; đồng thời, chi phí vay tăng cao đã gây áp lực cho ngay cả những công ty lớn. Người tiêu dùng lo sợ và bắt đầu dự trữ những hàng hóa nhập khẩu như đường và bột mì. Những mặt hàng này đã tăng giá gấp đôi từ tháng 11. Khăn giấy và  giấy vệ sinh cũng không còn xuất hiện trên các kệ hàng khi người tiêu dùng lo sợ về sự thiếu hụt bột giấy nhập khẩu.

Tình trạng bất ổn trong dân chúng đã làm tăng áp lực lên hệ thống chính trị Hàn Quốc khi đất nước này đang chuẩn bị tiến hành bầu cử tổng thống vào ngày 18/12. Trước khi Hàn Quốc đề nghị sự giúp đỡ tài chính từ IMF vào tháng 11, thực trạng nền kinh tế không phải là một vấn đề quan trọng trong các cuộc vận động bầu cử. Tuy nhiên, trong tuần trước cuộc bầu cử, không một ứng cử viên nào có thể bỏ qua vấn đề khủng hoảng vốn đang trở thành vấn đề quan trọng nhất trong cuộc bầu cử. Cuộc khủng hoảng đã đặt các ứng cử viên vào một tình thế đặc biệt khó khăn; họ không thể phớt lờ các cử tri, những người có thể phải chịu thiệt hại nếu có một chương trình cải cách cơ cấu. Và họ cũng không thể phớt lờ IMF khi mà sự giúp đỡ tài chính của tổ chức này rất cần thiết. Mặc dù, cả ba ứng cử viên hàng đầu cho chức tổng thống đều chỉ trích chương trình của IMF ở một mức độ nhất định, nhưng họ đều buộc phải chấp nhận các điều khoản cơ bản của IMF như một điều kiện để nhận được sự chấp thuận cuối cùng đối với khoản vay ngày 3/12. Cuộc khủng hoảng cũng đặt IMF vào một tình thế khó xử. IMF tin là cần thiết phải cải cách cơ cấu nền kinh tế nhưng chính tổ chức này cũng nhận thấy rằng gây sức ép quá mạnh có nguy cơ mang đến những phản ứng cực đoan cho nền chính trị Hàn Quốc. Nó có thể làm mất ổn định hệ thống chính trị và gây nguy hiểm cho sự khôi phục nền kinh tế. Làm theo một đường lối đúng đắn là một nhiệm vụ phức tạp và là những thách thức khác nhau ở mỗi đất nước đang bị khủng hoảng.

Cuối tháng 12, tổng thống mới được bầu Kim Dae Jung phải đương đầu với một tình trạng vô cùng khó khăn. Dự trữ ngoại hối của Hàn Quốc gần như bằng không và các ngân hàng của Hàn Quốc phải gánh một khoản nợ xấu lên tới 12% GNP. Thị trường chứng khoán xuống thấp đến mức mà số cổ phiếu chi phối của hãng Hàng không Hàn Quốc chỉ trị giá 165 triệu USD – bằng giá của một chiếc Boeing 747. Hệ quả là các nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin vào Hàn Quốc và miễn cưỡng gia hạn các khoản vay khi chúng đến hạn. IMF đã sẵn sàng thanh toán 9,1 tỷ USD trong số 21 tỷ USD đã cam kết. Nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Sau khi làm việc xuyên suốt cả kỳ nghỉ Giáng Sinh, các quan chức IMF đã đồng ý phân bổ thêm 10 tỷ USD trong nguồn vốn đã cam kết như là một khoản vay khẩn cấp để ngăn chặn tình trạng vỡ nợ. Quan trọng hơn, Cục dự trữ Liên bang Mỹ, Ngân hàng Nhật Bản và các ngân hàng trung ương khác đã gây áp lực lên các ngân hàng thương mại hàng đầu của họ để các ngân hàng đó đồng ý gia hạn các khoản nợ ngắn hạn, nếu không sẽ phải chịu trách nhiệm cho một thảm họa toàn cầu.

4.  Thử thách của IMF: Các quan điểm về cuộc khủng hoảng ở Hàn Quốc và phản ứng của IMF

Những chỉ trích chính sách của IMF

IMF biện hộ cho chính sách của mình

5. Con đường đi đến phục hồi

Câu hỏi

Download phần còn lại của bài viết tại đây: Xu ly cuoc khung hoang Chau A.pdf

[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]