#31 – Tại sao chiến tranh vẫn có thể xảy ra ở Châu Á?

57mm-AT-gun-Korea-1950

Nguồn: Hugh White (2008). “Why War in Asia Remains Thinkable”, Survival: Global Politics and Strategy, Vol. 50, No.6, pp. 85-104.

Biên dịch: Lương Thị Lan Anh | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp

Nếu như chúng ta quan niệm về chiến tranh giống như ông cha ta – rằng chiến tranh là những cuộc xung đột lớn giữa các cường quốc, cướp đi cuộc sống yên bình của hàng tỉ người và làm đảo lộn trật tự thế giới – thì chiến tranh dường như không còn có thể xảy ra ở châu Á. Hơn 30 năm qua, Đông Á tận hưởng nền hòa bình có lẽ chưa từng được biết đến trước đó. Trong khu vực Đông Bắc Á, các quốc gia hùng mạnh như Trung Quốc, Nhật Bản và Hoa Kì đang duy trì mối quan hệ hòa bình – hợp tác. Hơn thế nữa, ngoài những sự cố nhỏ tại quần đảo Trường Sa, không một cường quốc lớn nào ở Đông Á đã sử dụng vũ lực để chống lại các nước khác trong khu vực Châu Á kể từ sau chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979. Trong 40 năm qua, các thành viên của ASEAN đã cam kết không dùng vũ lực để chống lại nhau; những vấn đề khó liên quan đến Đài Loan, Triều Tiên và quần đảo Trường Sa đã được quản lý hiệu quả, và những vấn đề gai góc của Đông Dương cũng đã được giải quyết. Các cuộc xung đột nhỏ lẻ vẫn còn có thể xảy ra ở những điểm nóng như biên giới Thái Lan- Myanmar. Rủi ro thực sự vẫn còn xuất hiện ở khu vực vành đai Tây Á, trong đó có nguy cơ về chiến tranh lớn, thậm chí là chiến tranh hạt nhân giữa Ấn Độ và Pakistan. Tuy nhiên, nguy cơ chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan chưa đủ mạnh để châm ngòi cho một cuộc chiến lớn nổ ra ở Đông Á.

Trong khi đó, hầu hết các nước trong khu vực đều đang tận hưởng những phát triển đáng kể về chính trị và xã hội khi các chế độ chuyên chế (trừ một số ngoại lệ) từ Indonesia cho tới Hàn Quốc đã ít nhiều chuyển sang chế độ dân chủ trong hòa bình. Đáng lưu ý nhất là nền kinh tế trên khắp Đông Á đã và đang tăng trưởng với tốc độ ngoạn mục, tiến tới đưa Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế toàn cầu.

Nền kinh tế Châu Á hiện đã hội nhập toàn diện với dòng chảy ngày càng nhanh của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và nguồn nhân lực từ đất nước này tới đất nước khác. Kết quả là những hợp tác về chính trị, hội nhập về kinh tế đã thúc đẩy thành lập các thể chế khu vực, như Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), ASEAN+3 (gồm ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc) và  Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS). Những tổ chức này dù còn khá khiêm tốn so với các tổ chức ở Châu Âu, chí ít cũng là một khởi đầu cho việc xây dựng các thể chế có khả năng quản lý các vấn đề khu vực trong những thập niên tới. Như vậy, người ta rất khó hình dung ra một cuộc “chiến tranh” theo nghĩa truyền thống lại có thể xảy ra ở một Châu Á như hiện nay.

Thế nhưng, nếu trật tự ở Đông Á khiến người ta nghĩ rằng chiến tranh không thể xảy ra hiện nay thì câu hỏi liệu chiến tranh có xảy ra ở Châu Á trong tương lai hay không còn phụ thuộc vào câu trả lời đối với câu hỏi phần nào sâu xa hơn: Liệu Châu Á có khả năng duy trì trật tự mà nó đã có trong suốt những thập niên qua hay không? Nếu như khả năng đó xảy ra, tương lai của Châu Á sẽ được đảm bảo và tầm nhìn về một nền hòa bình vĩnh cửu của Immanuel Kantsẽ được thực hiện sau một chặng đường dài.1 Nếu không, một cuộc chiến tranh lớn giữa các cường quốc không những vẫn có thể xảy ra mà thậm chí còn có thể xảy ra với xác suất cao.

Việc người ta có lạc quan cho rằng trật tự trong những thập niên gần đây sẽ được giữ nguyên, hay bi quan rằng nó sẽ sụp đổ, phụ thuộc một phần vào những lý giải của họ về nền hòa bình trong những thập niên vừa qua. Rất nhiều người tin rằng nền hòa bình của Châu Á là một sản phẩm của sức mạnh không gì có thể phá vỡ được của lịch sử, điều làm xoay chuyển hình thái xã hội thế giới từ một thế giới do các quốc gia- dân tộc thống trị sang một hệ thống mà ở đó các chủ thể phi nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất và cũng tạo ra những mối đe dọa đáng lo ngại nhất.2 Trong trật tự thế giới mới này, nguy cơ xảy ra những cuộc xung đột truyền thống lớn dường như luôn có chiều hướng giảm đi. Cách nhìn nhận này có xu hướng lạc quan về lịch sử, thậm chí mang chút ít hơi hướng của chủ nghĩa Mác, với niềm tin vào tiến trình lịch sử không gì có thể lay chuyển được. Những người ủng hộ quan điểm này có xu hướng coi trật tự hòa bình của Châu Á là một thực tế bền vững, họ tin rằng các cá nhân thậm chí các nhà nước lớn chỉ có rất ít hoặc không có quyền điều khiển tiến trình lịch sử vốn đã sản sinh ra chính trật tự đó. Họ tin rằng trật tự hòa bình đó sẽ tồn tại lâu bền, bất chấp những hành động của các cá nhân hay chính sách của các quốc gia.

Quan điểm bi quan hơn có bản chất bảo thủ theo lối truyền thống. Phe ủng hộ quan điểm này cho rằng không hề có bất kì sự chuyển đổi căn bản nào trong xã hội quốc tế, họ cho rằng nền hòa bình trong các thập niên qua của Châu Á được tạo ra bởi sự may mắn và bởi chính sự kết hợp ngẫu nhiên, tình cờ và có thể không bền vững của một chuỗi các sự kiện và hoàn cảnh khác nhau. Nói cách khác, họ tin rằng nó là sản phẩm của sự may mắn, được hỗ trợ bởi những quyết định đúng đắn của các lãnh đạo nhà nước. Họ thừa nhận khả năng rằng những rủi ro và những quyết định thiếu khôn ngoan có thể làm đảo lộn vận may kia và phá hủy nền hòa bình. Do đó, họ không cho rằng nền hòa bình ở Châu Á sẽ kéo dài mãi mãi; trái lại, họ tin là nếu không có sự cố gắng, những quyết định khôn ngoan và sự may mắn thì nền hòa bình đó có thể sẽ biến mất.

Công bằng mà nói, quan điểm thứ hai có lẽ có sức thuyết phục hơn. Có nhiều chứng cứ chứng minh càng ngày càng khó để duy trì trật tự đã thúc đẩy nền hòa bình ở Châu Á trong những thập niên gần đây. Tăng trưởng kinh tế đang dần làm xói mòn các nền tảng của trật tư khu vực và công cuộc gây dựng một trật tự mới phản ánh thực trạng kinh tế trong thế kỷ Châu Á còn chưa được bắt đầu. Một khi nó được bắt đầu, người ta sẽ nhận thấy rõ ràng việc xây dựng một trật tự ổn định mới ở Châu Á còn đòi hỏi những nhượng bộ đáng kể từ các cường quốc trong khu vực. Khó có thể thấy các quốc gia này sẽ sẵn sàng và có thể nhượng bộ như vậy, và chắc chắn họ sẽ không chịu nhún mình trừ khi hoặc cho đến lúc họ hiểu rõ về các rủi ro [nếu một trật tự mới như vậy không được thiết lập]. Nếu họ không sẵn lòng thay đổi cách suy nghĩ về trật tự ở châu Á và vị trí của họ ở trong  trật tự này thì một cuộc chiến tranh khủng khiếp và mang tính hệ thống trở nên hoàn toàn có thể xảy ra.

Trên thực tế, có hai thử thách đặt ra cho Châu Á. Thử thách đầu tiên là nhận thức và xây dựng một trật tự mới ở Châu Á có khả năng mang lại nền hòa bình và ổn định như những gì trật tự hiện tại đã tạo ra cho châu lục này trong 35 năm qua. Thử thách thứ hai là đạt được trật tự mới đó trong hòa bình. Để chinh phục hai thử thách này, các cường  quốc Châu Á cần chấp nhận những sự thực sau:

  • Nền hòa bình họ đang tìm kiếm phụ thuộc vào mối quan hệ của các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là cách họ nhận thức về mối quan hệ quyền lực và cách thức điều chỉnh mối quan hệ đó.
  • Những mối quan hệ này không thể để phó mặc vào sự may rủi mà cần được thiết kế và xây dựng bằng từng bước đi có chủ định nếu muốn chúng được tạo ra nhằm xây dựng một trật tự hòa bình, ổn định và lâu dài;
  • Điều này sẽ không xảy ra trừ khi tất cả các cường quốc trong khu vực đều đặt nó lên ưu tiên hàng đầu;
  • Việc xây dựng trật tự này yêu cầu các cường quốc lớn phải chia sẻ và duy trì sự thừa nhận rằng bảo vệ hòa bình quốc tế là điều quan trọng hơn bất kì mục tiêu quốc gia nào. Điều hiển nhiên là chỉ những quốc gia nhận thấy chiến tranh là mối nguy hiểm hiển hiện và rõ ràng mới sẵn sàng hy sinh lợi ích quốc gia để bảo vệ nền hòa bình thế giới.

Thỏa thuận “đảm bảo kép”

Để hiểu rõ rủi ro đối với trật tự Châu Á ngày nay, chúng ta cần xem xét trật tự đó đã hình thành và phát triển như thế nào trong suốt quá trình 10 năm từ 1965 đến 1975. Trong thập niên đó, hầu hết những căng thẳng và bấp bênh đe dọa tới Đông Á và Đông Nam Á khoảng 20 năm đầu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã được giải quyết ổn thỏa. Ở khu vực Đông Nam Á, sự ra đi của Tổng thống Sukarno và việc Tổng thống Suharto lên nắm quyền đã chuyển Indonesia từ một cường quốc xét lại [revisionist power – cường quốc muốn thay đổi trật tự hiện hữu – NHĐ] sang một cường quốc nguyên trạng [status quo power – cường quốc muốn giữ trật tự hiện hữu – NHĐ]. Nguy cơ quốc gia lớn nhất Đông Nam Á rơi vào tay chủ nghĩa cộng sản đã dịu xuống và Indonesia đã trở thành một thành trì kiên cố của trật tự khu vực. Cuộc chuyển đổi của Indonesia đã dẫn tới sự thành lập của ASEAN, từ đó đặt nền móng cho sự xuất hiện của một trật tự tiểu khu vực ổn định, hợp tác và hòa bình ở Đông Nam Á. Dưới trật tự này, tất cả các mặt chính trị, kinh tế và xã hội đều phát triển hưng thịnh. Thành tựu của Đông Nam Á cũng có nghĩa rằng thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam nhằm chống lại sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Dương đã không mang lại hậu quả chiến lược lâu dài nào. Cho đến năm 1975, dãy cờ domino đã quá vững chắc không thể sụp đổ, và chính các nước Đông Dương sau một thập niên bi kịch khác cuối cùng cũng đã gia nhập ASEAN.

Mọi yếu tố này đều rất quan trọng, nhưng chính các điều kiện ở giai đoạn kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam đã có vai trò lớn nhất trong việc tạo nên trật tự hiện đại cho Đông Nam Á. Nền tảng chủ chốt của trật tự đó chính là sự thành lập các mối quan hệ giữa Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản trong những năm 1970 được khởi đầu và tượng trưng bởi chuyến thăm của Tổng thống Richard Nixon tới Bắc Kinh năm 1972. Kể từ đó, Mỹ đã có mối quan hệ tốt với cả Trung Quốc lẫn Nhật Bản, còn giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng tồn tại một mối quan hệ ổn định. Nguy cơ về một cuộc cạnh tranh chiến lược gay gắt, chưa nói tới chiến tranh, giữa các cường quốc lớn nhất Châu Á do đó đã được đẩy lùi. Có lẽ cơ chế mà nhờ đó trật tự trên được duy trì có thể được gọi là cơ chế “đảm bảo kép”, trong đó Mỹ bảo đảm cho an ninh của Nhật Bản trước Trung Quốc và ngược lại, đảm bảo Trung Quốc cũng sẽ an toàn trước Nhật Bản.

Quỹ đạo phát triển của Trung Quốc chính là trọng tâm của câu chuyện này. Sau hàng thế kỷ của loạn lạc và hàng thập niên nội chiến, Đảng Cộng sản Trung Quốc cuối cùng cũng tái thành lập một chính quyền trung ương vững mạnh năm 1949. Đây là thành tựu đáng ghi nhận nhưng chính quyền mới cũng tồn tại hai điểm yếu. Thứ nhất, ý thức hệ chính trị của chủ nghĩa cộng sản đã khiến cho Bắc Kinh phải thách thức trật tự chiến lược do phương Tây chi phối ở Châu Á, kéo theo đó là cuộc cạnh tranh lâu dài với Mỹ về chính trị, tư tưởng và chiến lược. Thứ hai, tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản đã thúc đẩy Trung Quốc xây dựng một nền kinh tế chỉ huy. Trong những thập niên đầu ngay sau khi Cách mạng Trung Quốc thành công, các khuynh hướng được chèo lái bởi hệ tư tưởng này đã ngăn cản Trung Quốc tận dụng tối đa những cơ hội mang lại bởi việc tái thành lập một chính quyền trung ương vững mạnh để phục hồi vị trí truyền thống của mình trên đỉnh của tháp quyền lực Châu Á. Vào cuối những năm 1960, Trung Quốc bắt đầu từ bỏ tư tưởng chống phương Tây, và tới cuối những năm 1970, nước này cũng kết thúc nền kinh tế chỉ huy. Từ đó trở đi, Trung Quốc ngày một thịnh vượng.

Người ta cho rằng, chính quyết định của Trung Quốc về việc chấp nhận và thích ứng với trật tự do Mỹ lãnh đạo ở Đông Á đã mang lại những thập niên hòa bình cho Châu Á. Đây là một bước tiến lớn đòi hỏi Trung Quốc phải từ bỏ những mục tiêu về tư tưởng và chính trị đã đặt ra trước đó. Bắc Kinh buộc phải thực hiện bước đi này do bị thúc đẩy cạnh tranh chiến lược với Liên Xô, đồng thời công nhận rằng cơ hội xây dựng một kỉ nguyên mới của Châu Á trong đó Trung Quốc nắm vai trò lãnh đạo dựa trên hệ tư tưởng cộng sản đã trôi qua khi các nước nhỏ hơn ở Châu Á ngày càng thành công và cam kết mạnh mẽ hơn đối với các mô hình kinh tế- chính trị theo kiểu phương Tây. Trung Quốc có lẽ lo ngại rằng sự phục hồi kinh tế của Nhật Bản đã đạt tới điểm cho phép nước này có khả năng đặt ra một thách thức chiến lược trực tiếp của riêng mình, đồng nghĩa với việc Bắc Kinh không thể tự động thống trị Châu Á nếu Mỹ rút lui. Sẽ là hợp lý hơn nếu Trung Quốc biết tự điều chỉnh cho phù hợp với thực tế sức mạnh của Mỹ, ít nhất là trong ngắn hạn.

Về phía Nhật Bản, các tính toán có điểm khác biệt hơn. Khi gánh nặng Việt Nam bắt đầu gây ra những thiệt hại nặng nề cho Mỹ, người ta càng ngày càng nghi ngờ về sự sẵn lòng và khả năng của Mỹ trong việc duy trì một vị trí đủ vững chắc trong khu vực Châu Á để đảm bảo cho an ninh của Nhật Bản như Mỹ đã từng làm từ năm 1945. Những mối nghi ngờ này lớn dần lên khi Nixon tuyên bố Học thuyết Guam năm 1969. Khả năng Nhật Bản tự đảm nhận trách nhiệm cho an ninh của mình đã đặt ra những thách thức về chính sách đối ngoại đáng lo ngại cũng như những xáo trộn trong nước, đồng thời mang lại những hệ quả nghiêm trọng về tài chính. Thêm vào đó, một số người Nhật lo ngại rằng nếu Bắc Kinh trở nên thỏa hiệp hơn, Mỹ sẽ trở nên thân thiết hơn với phía Trung Quốc thay vì Nhật Bản. Đối với Tokyo, mục đích là duy trì sự can dự chiến lược của Mỹ cũng như vai trò đồng minh chính của Nhật với nước này ở Châu Á. Nhưng để làm được điều đó, Nhật phải mãi mãi gác lại hy vọng đóng một vai trò bình thường hơn trong các vấn đề quốc tế, đồng thời chấp nhận những hạn chế nghiêm trọng đối với tự do hành động của mình.

Đối với Wasington, thỏa thuận “đảm bảo kép” yêu cầu một sự nhượng bộ lớn về chính trị, đó là chấp nhận tính chính đáng của chế độ cộng sản ở Trung Quốc. Quyết định nhượng bộ của Washington có cả khía cạnh khu vực lẫn thế giới. Về mặt khu vực, một sự thỏa hiệp với Trung Quốc sẽ kết thúc ý định tạo dựng một trật tự chống Phương Tây ở Châu Á của Bắc Kinh, tạo điều kiện cho Washington rút khỏi Việt Nam mà không phải chịu các hậu quả “địa chiến lược” mà ngay từ đầu sự can thiệp của Mỹ muốn ngăn chặn. Về mặt quốc tế, thỏa thuận này củng cố vị trí của Mỹ ở Châu Á khi đối diện với Liên Xô, và thực tế đã chấm dứt nguy cơ Liên Xô có thể thách thức nghiêm trọng sự tập trung quyền lực của Mỹ ở khu vực Đông Bắc Á. Từ đó trở đi, trọng tâm của Chiến tranh Lạnh đã dịch chuyển về phía Tây.

Thỏa thuận đó thực tế đã mang lại cho Mỹ nhiều thứ hơn so với những gì mà cha đẻ của nó là Tổng Thống Nixon và Henry Kisinger đã kỳ vọng. Mục tiêu đầu tiên của họ chủ yếu mang tính phòng thủ: họ muốn tạo dựng một vị thế có khả năng loại bỏ tất cả các cơ hội tiến tới vị trí thống trị Đông Á của Moscow, hòng thực hiện mục tiêu chiến lược kinh điển của Mỹ là ngăn chặn sự nổi lên của bất kì cường quốc thống trị nào ở cả hai mặt trận Châu Âu và Đông Á.3 Mọi việc đều diễn ra suôn sẻ, thỏa thuận “đảm bảo kép” với Nhật và Trung Quốc đã giúp giữ vững vị thế của Mỹ ở Châu Á, thậm chí cả sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, và chưa đến 2 thập niên sau đó nhà nước Xô Viết sụp đổ, Mỹ được thừa hưởng một vị thế ưu việt không bị ai thách thức ở một khu vực đang phát triển nhanh chóng nhất thế giới. Do vậy, Mỹ thua trong chiến tranh nhưng lại thắng trong hòa bình. Đây chắc chắn không phải những gì giới quan sát mong đợi tại thời điểm đó: trong những năm cuối thập kỷ 1960 – đầu thập kỷ 1970, phần lớn các chuyên gia tin rằng Châu Á đang chuyển sang một trật tự khu vực mới mà ở đó quyền lực và ảnh hưởng của Mỹ không còn mạnh như trước, cho phép một số các cường quốc khác nhau cùng chung sống trong một trạng thái cân bằng quyền lực kinh điển.4

Một trật tự đang chịu sức ép

Nguy cơ về một Châu Á bất ổn và kém phồn vinh hơn so với những thập niên sau chiến tranh Việt Nam ngày càng tăng do trật tự hậu chiến tranh Việt Nam đang tồn tại dưới một áp lực gây ra bởi chính thành công của khu vực này. Hòa bình và hợp tác đã thúc đẩy phát triển kinh tế, thế nhưng chính sự phát triển đó đã ngấm ngầm làm xói mòn các nền tảng của trật tự đã nuôi dưỡng nó. Các nước đạt được nhận thức chung về cách thức họ nên tương tác với nhau như thế nào phụ thuộc vào cách họ tự đánh giá sức mạnh của mình trong mối quan hệ với các nước khác. Khi tương quan quyền lực thay đổi, nhận thức mà họ đã có cuối cùng cũng phải thay đổi theo. Một trong những thành công của trật tự hậu chiến tranh Việt Nam là việc nó đã tồn tại khá lâu bất chấp nhiều thay đổi lớn, đặc biệt là về tương quan sức mạnh kinh tế. Thế nhưng, sẽ là một sai lầm nghiêm trọng nếu cho rằng vì trật tự đó đã tồn tại cho đến ngày nay, nó chắc chắn sẽ tiếp tục tồn tại bất chấp áp lực ngày càng dâng cao.

Ở Châu Á ngày nay, lực lượng chính thúc đẩy thay đổi trật quốc tế chính là sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. Sức mạnh kinh tế của Trung Quốc đã thay đổi đáng kể từ năm 1972 khi Nixon đến Bắc Kinh và các nền tảng trật tự hậu chiến tranh Việt Nam được gây dựng không chỉ bằng so sánh số liệu GDP đơn thuần mà còn về cả vị thế của Trung Quốc như một nước cho vay và vai trò cỗ máy tăng trưởng toàn cầu của nền kinh tế nước này. Nếu Trung Quốc không ngừng phát triển mạnh mẽ, những thay đổi tích tụ trong tương quan quyền lực sẽ làm xói mòn dần trật tự hậu chiến tranh Việt Nam. Để giữ vững hòa bình, một trật tự mới cần được xây dựng. Trật tự này phải phản ánh mối tương quan quyền lực mới và phù hợp với lợi ích và quan tâm cốt lõi của các cường quốc chính. Nếu trật tự mới không được xây dựng, không gì có thể đảm bảo cho nền hòa bình bền vững.

Các nhà hiện thực tấn công của trường phái Mearsheimer đã theo quan điểm định mệnh lịch sử rằng tất cả các cường quốc đang lên đã kích động các cuộc chiến tranh mang tính hệ thống khi những thách thức của họ đối với trật tự hiện hành bị chống lại bởi các cường quốc đã phát triển.5 Do đó, trong cách nhìn của họ, chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc là điều không thể tránh khỏi. Đây có vẻ là những quan điểm quá bi quan. Tất cả các cường quốc lớn ở khu vực Châu Á bao gồm cả Trung Quốc và Mỹ đều có lợi ích trong việc bảo vệ hòa bình. Điều này rất rõ ràng vì hòa bình là thiết yếu đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, chúng ta cần phải cẩn trọng không mắc phải sai lầm ngược lại là tin rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và sự tư lợi một cách sáng suốt sẽ làm chiến tranh không thể xảy ra. Trong vòng 200 năm qua, ảo tưởng này đã khiến cho người ta lầm tưởng rằng không cần thiết phải thiết lập các chính sách để ngăn cản chiến tranh. Những người có suy nghĩ lạc quan ngày nay vốn tin rằng toàn cầu hóa đã khiến chiến tranh trở nên lỗi thời là những người mới nhất trong danh sách những người đánh giá quá thấp khả năng của loài người trong việc đưa ra những chọn lựa đi ngược lại chính những lợi ích tốt nhất của mình.

Trọng tâm của vấn đề là sự tồn tại đồng thời không thể tránh khỏi nhưng không ai ngờ tới giữa chủ nghĩa dân tộc và toàn cầu hóa. Trong lý thuyết, các thuộc tính quốc gia trở nên kém quan trọng hơn khi toàn cầu hóa thay đổi cuộc sống con người, làm cho các quốc gia giảm sút quyền lực, ảnh hưởng và không còn hành xử như trước đây nữa. Nhưng trong thực tế mọi chuyện lại xảy ra ngược lại. Khi các quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ phát triển mạnh hơn nhờ vào toàn cầu hóa, họ lại ứng xử giống với các nhà nước truyền thống hơn, và khi tất cả mọi người trên thế giới sống trong mối liên kết toàn cầu, các nước này đã không giảm mà thậm chí còn gia tăng việc gắn mọi thứ với nguồn gốc quốc gia của họ hơn. Không những không khiến cho hình thái quốc gia – dân tộc trở nên lu mờ đi, toàn cầu hóa dường như đang tạo nên một thế giới được cấu thành bởi nhiều các cường quốc mạnh hơn so với trước đây.6

Chắc chắn điều này đang xảy ra ở Châu Á, nhưng không chỉ do Trung Quốc. Ấn Độ, Nhật Bản và có lẽ trong tương lai có cả Nga, Hàn Quốc và Indonesia, tất cả sẽ giành vị thế cường quốc trong vài thập niên tới. Thực tế, chúng ta dường như đang tiến tới một trật tự đa cực ở Châu Á mà một số chuyên gia đã dự đoán (vội vàng) từ những năm 1960. Lúc đó trật tự đó đã không xảy ra, và người ta có lẽ sẽ hỏi tại sao hiện tại lại là thời điểm thích hợp. Trong những năm 1960, các mối tương quan quyền lực thay đổi ít hơn nhiều so với ngày nay, đặc biệt là tương quan quyền lực về kinh tế (có lẽ mối tương quan này còn thay đổi ít hơn nhiều nếu so với các thập niên sắp tới).

Các mô hình cho một trật tự mới

Tình trạng trên làm dấy lên một câu hỏi: loại hình hệ thống quốc tế mới nào có thể thay thế cho trật tự hậu chiến tranh Việt Nam trong một khu vực Châu Á ngày càng đa cực? Những mô hình này thường rất hiếm (thế giới đã chứng kiến tương đối ít ví dụ các hệ thống quốc tế bao gồm nhiều quốc gia-dân tộc hùng mạnh cùng lúc), và những mô hình đã thực sự tồn tại đều đến từ lịch sử Châu Âu. Thật không khôn ngoan chút nào khi lấy các tiền lệ của Châu Âu để giải quyết các vấn đề Châu Á, nhưng dường như không có cách nào tốt hơn để phác họa các vấn để tương lai của Châu Á bằng cách dựa vào quá khứ của Châu Âu. Cách này đã được áp dụng nhiều lần trước đây (có lẽ nổi bật nhất là Aaron Friedberg trong bài luận của ông có tên “Will Europe’s Past be Asia’s Future?” [Liệu quá khứ của Châu Âu có là tương lai của Châu Á?]). 7 Tuy nhiên những phân tích này thường chỉ giới hạn trong một phần lịch sử của Châu Âu. Lịch sử Châu Âu có ít nhất 4 mô hình mẫu cho trật tự Châu Á trong tương lai.

Đầu tiên, đó là mô hình của đế chế La Mã từ thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Đây có lẽ cũng là mô hình Washington muốn lựa chọn. Đã có rất nhiều bài viết gần đây so sánh nước Mỹ hiện đại với đế quốc La Mã thời kỳ đang ở đỉnh cao phát triển. Hầu hết người ta không thể xem xét nghiêm túc những ý tưởng này, nhưng ý nghĩ cho rằng Mỹ có thể duy trì vô thời hạn – hoặc chí ít trong vài thập niên tới – vị trí bá chủ của mình ở Châu Á đã ăn sâu vào tư duy chính trị Mỹ. Ý tưởng về mô hình này cũng nhận được sự đồng thuận từ phía Tây Thái Bình Dương, nhiều người ở Nhật Bản, Đông Nam Á và Australia tin tưởng đây là mô hình hấp dẫn cho tương lai Châu Á, hay ít nhất đó cũng là sự lựa chọn thích hợp nhất trong các lựa chọn khác nhau. Nhưng liệu nó có đáng tin? Mô hình này hàm ý rằng trật tự Châu Á không cần phải thay đổi khi quyền lực của Trung Quốc và các quốc gia Châu Á khác đã tăng lên tương đối so với Mỹ. Để tin được điều này, người ta phải tin rằng hoặc nền kinh tế Trung Quốc vì lý do nào đó sẽ tiếp tục nhỏ hơn đáng kể so với nền kinh tế Mỹ, hoặc Trung Quốc sẽ tiếp tục chấp nhận vai trò lãnh đạo về chiến lược và chính trị của Mỹ ngay cả sau khi Trung Quốc đã ngang tầm, thậm chí là vượt qua Mỹ về quân sự và quyền lực. Điều này không phải là không thể xảy ra, tuy nhiên xác suất là thấp, và do đó không phải là một cơ sở đáng tin cậy cho việc xây dựng chính sách tương lai.

Mô hình thứ hai có thể áp dụng cho tương lai Châu Á là mô hình hậu quốc gia, hậu chiến lược và hội nhập sâu của Châu Âu trong thế kỷ 21, đó chính là Liên minh Châu Âu, nơi việc sử dụng vũ lực trong các vấn đề quốc tế đã bị xóa bỏ ngay cả giữa những kẻ thù lâu đời, ít nhất là trong khu vực Tây Âu. Chúng ta có thể hy vọng rằng trật tự này là tương lai của Châu Á, nhưng thực tế cho thấy tương lai đó còn rất xa vời. Theo đánh giá từ kinh nghiệm của Châu Âu, việc xây dựng một trật tự hậu chiến lược yêu cầu một bề dày truyền thống về hợp tác chính trị để thấy được những gì là khả thi, một cuộc xung đột quyết liệt trong lịch sử gần đây để biết được những điều gì phải tránh, và sự hiện diện một mối nguy hiểm rình rập để thúc đẩy sự thỏa hiệp. Có lẽ chỉ có đầy đủ các điều kiện trên mới cho phép Pháp và Đức hợp tác cùng nhau như những gì họ đã làm trong những thập niên gần đây. Thế nhưng chúng ta không nên giả định rằng Nhật Bản và Trung Quốc sẽ có thể làm được như vậy trong tương lai gần.

Mô hình thứ 3 chính là trật tự Châu Âu trong thế kỷ 19: Một Châu Âu của sự “hòa hợp quyền lực” [concert of powers]. Bản chất của hệ thống hòa hợp quyền lực này chính là sự tồn tại từ năm 1815 đến năm 1914 một trật tự hình thành bởi các mối quan hệ giữa các cường quốc, những quốc gia dù thường xuyên cạnh tranh cao độ nhưng đã thiết lập nên những nhận thức rõ ràng về các giới hạn đối với sự cạnh tranh đó. Những nhận thức này bao gồm sự tôn trọng tính chính danh của các thể chế chính trị, các lợi ích quốc gia và lực lượng quân đội của tất cả các cường quốc khác, cũng như sự đồng thuận rằng không để một cuộc chiến tranh toàn lực xảy ra giữa các nước này là điều quan trọng hơn cả. Nhìn lại vấn đề, những người trong cuộc hiểu rõ rằng sự “hòa hợp quyền lực” đó không hòa bình như vẻ bề ngoài, nhưng đó vẫn là một thành tựu đáng kể, bởi dưới hệ thống đó quyền lực kinh tế, ảnh hưởng toàn cầu, các thể chế chính trị và phúc lợi xã hội của Châu Âu đã gia tăng đáng kể.

Cuối cùng, mô hình thứ tư chính là hệ thống cân bằng quyền lực đã định hình nên các quan hệ chiến lược của Châu Âu trong suốt lịch sử hiện đại của nó, xuyên suốt thế kỷ 16, 17, 18 và thế kỷ 20. Hệ thống cân bằng quyền lực này đã hoạt động hiệu quả trong quá trình bảo vệ lợi ích của hầu hết các quốc gia bên trong nó bằng cách không cho phép một cường quốc đơn lẻ nào đạt được vị thế bá quyền. Khi đã được quản lý chặt chẽ, hệ thống này có thể giúp duy trì hòa bình, nhưng các quốc gia phải trả giá bằng sự cạnh tranh không ngừng về mặt chiến lược và các cuộc chiến tranh mang tính hệ thống đẫm máu thi thoảng diễn ra. Chắc chắn các cuộc chiến tranh cũng sẽ đẫm máu như vậy nếu xảy ra giữa các cường quốc sở hữu vũ khí hạt nhân.8 Lịch sử Châu Âu cho thấy đây là tiền đề mặc định cho một trật tự đa cực, và đó là trật tự mà chúng ta sẽ nhiều khả năng chứng kiến nhất ở Châu Á khi trật tự hậu chiến tranh Việt Nam sụp đổ. Nếu chúng ta đang đi theo hướng đó, một trật tự mới sẽ nổi lên và một cuộc chiến tranh lớn sẽ có nhiều khả năng xảy ra hơn.

Đi sai đường

Không có lựa chọn nào dễ dàng

Chú thích

Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Chien tranh o Chau A_Hugh White.pdf

[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]