Khái quát lịch sử Mỹ (Ch.7): Nội chiến và công cuộc tái thiết

Civil_War-33

Nguồn: Alonzo L. Hamby, Outline of U.S. History (New York: Nova Publishers, 2007), Ch. 7.

Bài liên quan: Các chương khác trong cuốn Outline of US History

“Dưới sự che chở của Chúa, dân tộc này sẽ có một nền tự do mới”
– Tổng thống Abraham Lincoln, ngày 19/11/1863

Ly khai và nội chiến

Việc Lincoln thắng cử tổng thống tháng 11/1860 đã khiến cho việc bang Nam Carolina ly khai khỏi liên bang ngày 20/12 là một kết quả có thể đoán trước. Bang này đã chờ đợi sự kiện này từ lâu, một sự kiện sẽ liên kết được miền Nam chống lại các lực lượng chống chế độ nô lệ. Cho tới ngày 1/2/1861, năm bang khác nữa đã ly khai. Vào ngày 8/2, sáu bang này đã thông qua hiến pháp tạm thời cho các bang ly khai. Tuy nhiên, các bang miền Nam còn lại vẫn ở trong liên bang cho dù bang Texas đã bắt đầu chuẩn bị ly khai.

Chưa đầy một tháng sau đó, ngày 4/3/1861 Abraham Lincoln đã tuyên thệ nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ. Trong diễn văn nhậm chức ông tuyên bố sự ly khai không có hiệu lực về mặt pháp luật. Bài diễn văn của ông kết thúc bằng việc kêu gọi phục hồi những mối liên kết của liên bang, nhưng miền Nam đã bưng tai giả điếc. Ngày 12/4, súng phe ly khai đã nổ nhằm vào các binh đội liên bang đồn trú ở Đồn Sumter tại hải cảng Charleston, bang Nam Carolina. Chiến tranh đã bắt đầu, một cuộc chiến mà trong đó số người Mỹ tử trận nhiều hơn bất kỳ cuộc xung đột nào trước đây và về sau.

Trong bảy bang đã ly khai, dân chúng tích cực đáp lại hành động và lãnh đạo của tổng thống mới của các bang ly khai, ông Jefferson Davis. Cả hai phe lúc này đều căng thẳng chờ đợi hành động của các bang duy trì chế độ nô lệ mà khi đó vẫn rất trung thành. Bang Virginia ly khai ngày 17/4; các bang Arkansas, Tennessee và Bắc Carolina cũng nhanh chóng làm theo.

Không có bang nào rời liên bang lại miễn cưỡng hơn bang Virginia. Các chính khách của bang này đã tham gia lãnh đạo trong chiến thắng của Cách mạng và khởi thảo Hiến pháp và bang này cũng cung cấp năm tổng thống cho đất nước. Đại tá Robert E. Lee đi theo bang Virginia, ông này đã khước từ mệnh lệnh của Quân đội Liên bang để giữ lòng trung thành với bang của mình.

Giữa các bang ly khai đã được mở rộng và các bang tự do miền Bắc là các bang nô lệ ở sát biên giới gồm Delaware, Maryland và Kentucky và Missouri. Các bang này cho dù có đôi chút cảm thông với miền Nam nhưng vẫn trung thành với liên bang.

Mỗi bên đều tham chiến với niềm hy vọng rất cao vào chiến thắng nhanh chóng. Miền Bắc có được những lợi thế rõ ràng về các nguồn lực vật chất. Hai mươi ba bang với số dân 22 triệu người dàn trận chống lại 11 bang với 9 triệu dân gồm cả nô lệ. Sự vượt trội về công nghiệp của miền Bắc thậm chí còn quan trọng hơn cả ưu thế về dân số khi cung cấp được cho miền Bắc lượng dồi dào các thiết bị để chế tạo vũ khí và đạn dược, quần áo và các đồ cung cấp khác. Mạng lưới đường sắt ở miền Bắc cũng có ưu thế vượt trội.

Miền Nam cũng có những lợi thế nhất định. Lợi thế quan trọng nhất là địa lý, miền Nam đang tiến hành chiến tranh tự vệ trên lãnh thổ của mình. Miền Nam có thể dành được độc lập khi đánh bại đội quân miền Bắc. Miền Nam cũng có truyền thống quân sự mạnh hơn và có những thủ lĩnh quân đội có nhiều kinh nghiệm hơn.

Tấn công ở phía Tây, bế tắc ở phía Đông

Trận đánh lớn đầu tiên của chiến tranh tại Bull Run, bang Virginia (cũng nổi tiếng với cái tên Manassas thứ nhất) gần Washington, đã phá tan mọi ảo tưởng cho rằng chiến thắng sẽ nhanh chóng hay dễ dàng. Nó cũng tạo nên một mẫu hình, ít nhất ở miền Đông nước Mỹ, về các chiến thắng đẫm máu của miền Nam không bao giờ chuyển thành lợi thế quân sự mang tính quyết định cho các bang ly khai.

Trái ngược với những thất bại quân sự của mình ở miền Đông, các lực lượng Liên bang đã có các chiến thắng ở chiến trường phía Tây và làm trì hoãn thành công chiến lược trên biển của phe ly khai. Phần lớn lực lượng Hải quân vào lúc mới xảy ra chiến tranh nằm trong tay liên bang, nhưng lực lượng hải quân đó dàn trải và yếu. Bộ trưởng Hải quân Gideon Welles đã nhanh chóng thi hành các biện pháp củng cố lực lượng này. Sau đó Lincoln đã tuyên bố bao vây các bờ biển miền Nam. Tuy hiệu quả của cuộc bao vây lúc đầu là không đáng kể nhưng cho tới năm 1863, cuộc bao vây đó đã hầu như hoàn toàn ngăn chặn được những chuyến tàu chở bông đi châu Âu và cắt đứt việc nhập khẩu vũ khí đạn dược, quần áo và đồ y tế mà miền Nam đang cần đến.

Tư lệnh hải quân xuất sắc của Liên bang, David Farragut, đã tiến hành hai chiến dịch tuyệt vời. Tháng 4/1862, ông đưa một hạm đội liên bang tới cửa sông Mississippi và buộc New Orleans, bang Louisiana, thành phố lớn nhất miền Nam, phải đầu hàng. Tháng 8/1864, với tiếng hô “Không sợ thủy lôi, tiến lên với tốc độ tối đa”, ông đã dẫn một lực lượng đi xuyên qua lối vào được phòng thủ chặt dẫn tới vịnh Mobile, bang Alabama, bắt sống được một tàu bọc sắt của phe ly khai và vây chặt cảng.

Ở thung lũng sông Mississippi, các lực lượng Liên bang đã giành được một loạt chiến thắng liên tiếp. Các chiến thắng đó bắt đầu bằng việc đập tan tuyến quân ly khai kéo dài ở bang Tennessee, bởi thế nên quân Liên bang có thể chiếm phần lớn toàn bộ phần phía tây của bang này. Khi cảng Memphis quan trọng ở sông Mississippi bị chiếm, quân đội Liên bang lại tiến thêm được chừng 320 cây số về phía trung tâm của phe ly khai. Có Tướng Ulysses S. Grant kiên cường bền bỉ chỉ huy, quân đội Liên bang đã chống lại được cuộc phản công bất ngờ của phe ly khai tại Shiloh trên các bờ dốc nhìn ra sông Tennessee. Số người bị chết và bị thương ở Shiloh vượt quá con số 10.000 ở mỗi phe, một tỉ lệ thương vong mà Mỹ chưa bao giờ thấy trước đây. Nhưng đó chỉ là màn mào đầu của cuộc tàn sát.

Trái lại, ở Virginia quân đội Liên bang tiếp tục gặp hết thất bại này đến thất bại khác. Trong khi tiếp tục những nỗ lực đẫm máu nhằm chiếm được Richmond, thủ đô của phe ly khai, các lực lượng Liên bang liên tục bị đẩy lùi. Phe ly khai có lợi thế phòng thủ lớn là vô số những dòng sông, suối cắt ngang con đường nối Washington và Richmond. Hai viên tướng giỏi nhất, Robert E.Lee và Thomas J (“Stonewall) Jackson, trội vượt hơn nhiều về khả năng so với các vị tư lệnh chỉ huy quân đội liên bang thời kỳ đầu. Vào năm 1862, một chỉ huy quân đội liên bang, ông George MeClellan đã có một nỗ lực chậm rãi cẩn thận quá mức để chiếm Richmond. Nhưng trong trận đánh bảy ngày từ ngày 25/6 đến 1/7, quân đội Liên bang đã bị đẩy lùi liên tục, cả hai bên đều phải chịu những tổn thất ghê gớm.

Sau một thắng lợi khác của phe ly khai tại trận đánh thứ hai ở Bull Run (hay là trận Manassas thứ hai) Tướng Lee đã vượt qua sông Potomac và chiếm bang Maryland. McClellan lại phản ứng lừng chừng mặc dù biết rằng Lee đã chia cắt được quân đội của ông và trội hơn hẳn về số quân. Các đơn vị quân đội của liên bang và phe ly khai chạm trán ở Antietam Creek gần Sharpsburg, bang Maryland ngày 17/9/1862, đó là một ngày đẫm máu nhất của cuộc Nội chiến: Hơn 4.000 người chết ở cả hai phe và 18.000 người bị thương. Tuy có lợi thế về số quân nhưng McClellan vẫn thất bại trong việc đánh tan các phòng tuyến của Lee hay đè bẹp được cuộc tấn công và vì vậy Lee có thể rút lui qua sông Potomac cùng đạo quân nguyên vẹn của mình. Vì vậy Lincoln đã bãi nhiệm McClellan.

Tuy trận Antietam là chưa dứt khoát về phương diện quân sự nhưng những hệ quả của nó là trọng đại. Nước Anh và nước Pháp, cả hai tuy đã sẵn sàng công nhận phe ly khai, đã trì hoãn quyết định của mình, và miền Nam không được công nhận về mặt ngoại giao và trợ giúp kinh tế từ châu Âu, điều mà miền Nam đang nỗ lực tìm kiếm.

Antietam cũng đem lại cho Lincoln cơ hội ông cần để công bố Tuyên bố Giải phóng Nô lệ sơ bộ, văn kiện này tuyên bố rằng từ ngày mồng 1/1/1863, tất cả nô lệ ở các bang thuộc phe ly khai đang chống lại Liên bang được tự do. Về phương diện thực tiễn thì Tuyên bố có ít tác động tức thời; nó giải phóng cho nô lệ chỉ ở các bang của phe ly khai, trong khi đó lại giữ nguyên tình trạng nô lệ ở các bang biên giới. Tuy vậy về mặt chính trị, Tuyên bố có ý nghĩa rằng, ngoài việc trợ giúp bảo vệ Liên bang, việc bãi bỏ chế độ nô lệ lúc này được tuyên bố là mục tiêu của nỗ lực chiến tranh do Liên bang tiến hành.

Tuyên bố Giải phóng Nô lệ cuối cùng được ban hành ngày 1/1/1863 cũng cho phép tuyển người da đen vào quân đội Liên bang, một việc mà các thủ lĩnh phong trào bãi nô như Frederick Douglass đã thúc giục ngay từ đầu cuộc xung đột vũ trang. Trên thực tế, các lực lượng bảo vệ Liên bang đã bảo vệ những nô lệ chạy trốn như là làm trò buôn lậu thời chiến tranh, nhưng theo Tuyên bố Giải phóng Nô lệ thì quân đội Liên bang đã tuyển mộ và huấn luyện các trung đoàn lính da đen và đội quân này đã chiến đấu xuất sắc trong các trận chiến đấu từ Virginia tới Mississippi. Khoảng 178.000 người Mỹ gốc Phi đã phục vụ trong các Binh chủng hỗn hợp của Mỹ, và 29.500 người da đen phục vụ trong lực lượng Hải quân Liên bang.

Tuy có những lợi ích về mặt chính trị do Tuyên bố Giải phóng Nô lệ thể hiện, nhưng các triển vọng quân sự của miền Bắc vẫn mờ nhạt vì quân đội Bắc Virginia của Lee tiếp tục đánh mạnh đội quân Potomac của Liên bang, trận thứ nhất tại Fredericksburg, bang Virginia vào tháng 12/1862 và sau đó tại Chancellorsville vào tháng 5/1863. Tuy trận Chancelllorsville là một trong những thắng lợi quân sự rực rỡ nhất của Lee, nhưng đây cũng là chiến thắng đắt giá nhất. Tướng Stonewall Jackson, sỹ quan có giá trị nhất, đã bị chính quân của mình bắn nhầm và tử trận.

Từ Gettysburg tới Appomattox

Tuy nhiên, không chiến thắng nào của phe ly khai mang tính quyết định cả. Chính phủ Liên bang tập trung các đội quân mới và lại cố gắng tấn công. Cho rằng thất bại tan tác của quân miền Bắc ở Chancellorville đã đem lại một cơ hội, Lee liền tiến đánh lên phía bắc tới bang Pennsylvania và vào đầu tháng 7/1863, ông đã gần như tới được thủ phủ của bang ở Harrisburg. Một lực lượng mạnh của Liên bang đã chặn được Tướng Lee ở Gettysburg, tại đây trong một trận đánh lớn kéo dài ba ngày – trận quyết chiến lớn nhất trong cuộc Nội chiến – binh lính phe ly khai đã hết sức dũng cảm chiến đấu nhằm đập tan các phòng tuyến của liên bang. Nhưng họ đã thất bại và sau những tổn thất tai hại, các đội quân của Tướng Lee đã phải rút lui về bên kia bờ sông Potomac.

Hơn 3.000 binh sỹ Liên bang và 4.000 lính phe ly khai tử trận ở Gettysburg, tổng số binh lính bị thương và mất tích ở mỗi bên lên tới hơn 20.000 người. Vào ngày 19/9/1863, Lincoln đã khánh thành một nghĩa trang quốc gia mới ở Gettysburg với bài diễn văn có lẽ là nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Mỹ. Ông kết luận những nhận xét ngắn ngủi của mình bằng những lời sau:

…Tại đây chúng ta quả quyết rằng sự hy sinh này sẽ không hề vô ích – rằng dân tộc này, ơn Chúa, sẽ có nền tự do mới – rằng một chính phủ của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân sẽ không bị tiêu diệt trên trái đất này.

Trên sông Mississippi sự kiểm soát của Liên bang bị ngăn chặn ở Vicksburg nơi quân phe ly khai đã củng cố chắc chắn trên những bờ dốc cao đến nỗi hải quân không thể tấn công được. Cho tới đầu năm 1863, Grant bắt đầu tiến quân về xuôi và xung quanh Vicksburg, đưa nó vào vị trí bị bao vây trong sáu tuần. Vào ngày 4/7 ông chiếm được thành phố này và đánh bại đạo quân phe ly khai mạnh nhất ở miền Tây. Lúc này con sông đã hoàn toàn lọt vào tay Liên bang. Phe ly khai đã bị chia cắt thành hai phần và người ta không thể mang đồ tiếp viện từ Texas và Arkansas đến được nữa.

Các chiến thắng của quân miền Bắc ở Virksburg và Getysburg vào tháng 7/1863 đã đánh dấu bước ngoặt của cuộc chiến tranh, tuy các cuộc chém giết đẫm máu vẫn tiếp tục không hề giảm sút trong suốt một năm rưỡi.

Lincoln đã phái Grant sang miền Đông và bổ nhiệm ông làm Tổng Tư lệnh toàn bộ các lực lượng quân đội Liên bang. Tháng 5/1864, Grant đã hành quân tiến sâu vào bang Virginia và gặp đạo quân phe ly khai của Tướng Lee trong trận đánh kéo dài ba ngày ở Wilderness. Những tổn thất ở cả hai phe thật nặng nề, nhưng khác với các vị chỉ huy khác của Liên bang, Grant không rút lui. Thay vì như thế, ông nỗ lực dàn quân đánh thọc sườn Lee bằng cách kéo căng phòng tuyến quân phe ly khai ra và dùng pháo binh nã mạnh rồi đưa bộ binh tấn công. “Tôi đề nghị đánh bọn này đến cùng suốt phòng tuyến đó cho dù có mất cả mùa đông”- vị chỉ huy quân Liên bang đã nói vậy ở Spotsylvania trong suốt năm ngày chiến đấu trong chiến hào đẫm máu vốn rất đặc trưng cho cuộc chiến đấu ở mặt trận miền Đông trong suốt gần một năm.

Ở miền Tây, các lực lượng Liên bang đã giành được quyền kiểm soát bang Tennessee vào mùa thu năm 1863 bằng các thắng lợi ở Chattanooga và gần núi Lookout và mở đường cho Tướng William T. Sherman đánh chiếm bang Georgia. Sherman dùng chiến thuật giỏi hơn nên đánh bại một số đội quân nhỏ hơn của phe ly khai và chiếm được thủ phủ bang là Atlanta, sau đó ông hành quân tới bờ Đại Tây Dương, trên đường đi ông cho phá hủy một cách hệ thống các đường sắt, nhà máy, kho hàng và những phương tiện khác. Binh lính của ông do bị cắt đứt khỏi những nguồn tiếp viện nên đã cướp phá làng mạc để lấy lương thực. Từ bờ biển, Sherman hành tiến lên phía bắc, và tới tháng 2/1865, ông đã chiếm Charleston ở Nam Carolina nơi những loạt đạn đầu tiên của cuộc Nội chiến được phát hỏa. Hơn bất cứ một tướng lĩnh liên bang nào khác, Sherman hiểu rằng, việc phá hủy ý chí và tinh thần của miền Nam cũng quan trọng như đánh bại các đạo quân của họ.

Trong khi đó, Grant đang tiến hành bao vây thành Petersburg, bang Virginia trong suốt chín tháng cho tới khi Lee bỏ cả thành Peterburg lẫn thủ phủ của phe ly khai là Richmond trong một nỗ lực rút chạy về phía nam vào tháng 3/1865. Nhưng như thế đã quá muộn. Vào ngày 9/4/1865, bị các đạo quân đông đảo của Liên bang bao vây, Lee đã đầu hàng Tướng Grant tại trụ sở Tòa án Appomattox. Tuy các trận đánh lẻ tẻ vẫn tiếp tục ở một số nơi trong vài tháng nhưng như vậy là cuộc Nội chiến đã chấm dứt.

Những điều kiện đầu hàng tại Appomattox quả thực là quảng đại, và từ khi gặp gỡ với Lee trở về, Grant đã làm cho những cuộc diễu hành ồn ào của binh lính dưới quyền ông trở nên im lặng bằng lời lẽ nhắc nhở họ: “Những kẻ nổi loạn lại là đồng bào của chúng ta đấy. Cuộc chiến tranh vì nền độc lập của miền Nam tuy trở thành một sự nghiệp thất bại, nhưng người anh hùng của sự nghiệp đó, Robert E. Lee, đã được đông đảo mọi người thán phục vì sự xuất sắc trong tài lãnh đạo và sự vĩ đại của ông trong thất bại.

Không chút tà tâm ác ý

Với miền Bắc thì cuộc chiến tranh đã sản sinh ra một vị anh hùng còn vĩ đại hơn trong con người Abraham Lincoln – một con người sốt sắng, mê say hơn hẳn những người khác muốn hàn gắn liên bang lại với nhau, nhưng không phải bằng sức mạnh và đàn áp, mà bằng tình cảm ấm áp và sự hào phóng. Vào năm 1864, ông đã được bầu làm tổng thống nhiệm kỳ thứ hai sau khi đánh bại đối thủ của ông thuộc Đảng Dân chủ, George McClellan, một vị tướng mà Lincoln đã bãi chức sau trận Antietam. Bài diễn văn nhậm chức lần thứ hai của Lincoln kết thúc bằng những lời lẽ sau:

… không chút tà tâm ác độc, với lòng từ thiện khoan dung vì mọi người, với niềm tin vững chắc vào lẽ phải như đức tin về Chúa đã khiến chúng ta nhìn thấy điều đúng đắn, chúng ta hãy nỗ lực hoàn thành công việc chúng ta đang làm để hàn gắn những vết thương của dân tộc; để chăm lo cho người lính đã từng phải ra trận, chăm lo cho góa phụ và những đứa trẻ mồ côi – để làm tất cả những gì có thể đem lại và nuôi dưỡng nền hòa bình công bằng và dài lâu giữa đồng bào chúng ta và với tất cả các dân tộc.

Ba tuần sau đó, và là hai ngày sau khi Lee đầu hàng, Lincoln đã đọc bài diễn văn cuối cùng gửi quốc dân đồng bào, trong đó ông trình bày một chính sách tái thiết rộng rãi. Vào ngày 14/4/1865, Tổng thống đã triệu tập một cuộc họp mà đã trở thành một cuộc họp nội các cuối cùng của ông. Buổi tối hôm ấy, ông đã cùng một cặp vợ chồng trẻ là khách của ông tới xem buổi biểu diễn tại nhà hát Ford’s. Tại đó, khi ông đã ngồi trong lô giành cho tổng thống thì bị tên John Wilkes Booth, một diễn viên người bang Virginia đắng cay thất vọng vì thất bại của miền Nam, ám sát. Vài ngày sau đó, tên Booth đã bị giết chết trong một cuộc chạm súng ở một kho thóc vùng quê Virginia. Những kẻ đồng lõa của y đã bị bắt và sau đó bị hành quyết.

Lincoln đã qua đời trong một căn phòng ngủ tầng dưới một ngôi nhà bên kia đường gần nhà hát Ford’s vào buổi sáng ngày 15/4. Nhà thơ James Russell Lowell đã viết:

Trước buổi sáng tháng 4 choáng váng ấy chưa bao giờ lại có nhiều người đến thế, chứa chan nước mắt khóc cái chết của một con người họ chưa từng thấy mặt, dường như sự hiện diện thân tình của người ấy đã vĩnh viễn bị tước đi khỏi cuộc đời họ và để lại họ lạnh lẽo hơn, tăm tối hơn. Chưa bao giờ có khúc tụng ca tang lễ nào lại hùng biện như cái nhìn im lặng của nỗi niềm thông cảm mà những người xa lạ trao đổi với nhau khi họ gặp nhau ngày này. Tất cả đồng bào đã mất đi một người thân thích.

Nhiệm vụ lớn lao đầu tiên đối mặt với miền Bắc chiến thắng – lúc này dưới sự lãnh đạo của vị phó tổng thống của Lincoln, Andrew Johnson, một người miền Nam vẫn trung thành với Liên bang – là xác định cương vị của các bang đã ly khai. Lincoln đã đưa ra sẵn lộ trình. Theo quan điểm của ông thì mọi người ở các bang miền Nam chưa bao giờ ly khai hợp pháp cả; họ đã bị một số công dân phản loạn lừa dối dẫn tới việc thách thức không tuân phục Chính quyền Liên bang. Và vì chiến tranh là hành động của các cá nhân nên Chính phủ Liên bang sẽ xử lý những cá nhân này chứ không phải với các bang. Do đó, vào năm 1863, Lincoln tuyên bố rằng, nếu trong bất kỳ bang nào mà 10% những người đã đi bầu vào năm 1860 thành lập chính phủ trung thành với Hiến pháp nước Mỹ và công nhận sự phục tùng các luật của Quốc hội và những tuyên bố của tổng thống, thì ông sẽ công nhận chính phủ được thành lập ấy như một chính quyền hợp pháp của bang.

Quốc hội đã bác bỏ kế hoạch này. Nhiều đảng viên Cộng hòa sợ rằng việc này sẽ khiến cho những kẻ nổi loạn trước đây sẽ lên nắm quyền; họ phản đối quyền của Lincoln giải quyết vấn đề các bang nổi loạn mà không có tham khảo ý kiến. Một số nghị sỹ Quốc hội ủng hộ cho việc trừng phạt nghiêm khắc tất cả các bang đã ly khai; một số người khác thì cho rằng cuộc chiến đã không thu được thắng lợi khi các lực lượng miền Nam lại khôi phục được quyền lực của họ. Tuy nhiên, thậm chí ngay trước khi chiến tranh hoàn toàn chấm dứt, các chính phủ mới vẫn được thiết lập ở các bang Virginia, Tennessee, Arkansas và Louisiana.

Để giải quyết một trong những mối lo lắng chính yếu – điều kiện của các nô lệ trước đây – vào tháng 3/1865, Quốc hội đã thành lập Cục Phụ trách nô lệ được giải phóng để hoạt động với tư cách người bảo vệ cho những người Mỹ gốc châu Phi và hướng dẫn họ cuộc sống tự lập. Đến tháng 12 năm đó, Quốc hội đã phê chuẩn Điều bổ sung sửa đổi thứ 13 của Hiến pháp, văn kiện này đã bãi bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ.

Trong cả mùa hè năm 1865, Johnson đã tiếp tục thực hiện chương trình tái thiết của Lincoln với những thay đổi nhỏ. Bằng tuyên bố của tổng thống, ông đã bổ nhiệm thống đốc cho từng bang trong số các bang thuộc phe ly khai trước đây và đã phục hồi một cách rộng rãi các quyền chính trị cho đông đảo cá nhân miền Nam thông qua việc sử dụng các lệnh ân xá của tổng thống.

Các hội nghị đã kịp thời nhóm họp ở tất cả các bang thuộc phe ly khai trước đây để thủ tiêu các sắc lệnh ly khai, bãi bỏ các món nợ thời chiến và khởi thảo các hiến pháp bang mới. Đương nhiên một người theo chủ trương Liên bang khi trở thành thống đốc của mỗi bang với quyền lực liền triệu tập hội nghị những cử tri trung thành với Liên bang. Johnson kêu gọi từng hội nghị đấu tranh làm mất hiệu lực của sự ly khai, bãi bỏ chế độ nô lệ, không thừa nhận mọi khoản nợ đã dùng để trợ giúp cho phe ly khai và phê chuẩn Điều bổ sung sửa đổi thứ 13 của Hiến pháp. Cho đến cuối năm 1865, với một vài ngoại lệ, quá trình này đã được hoàn tất.

Công cuộc tái thiết cấp tiến

Cả Lincoln và Johnson đều đã thấy trước rằng Quốc hội sẽ có quyền phủ nhận ghế của các nhà lập pháp bang miền Nam trong Thượng viện hay Hạ viện Mỹ căn cứ theo điều khoản của Hiến pháp cho rằng Mỗi viện sẽ là người phán quyết những tiêu chuẩn của các nghị sỹ thuộc viện đó. Điều này đã được thông qua khi dưới sự lãnh đạo của Thaddeus Stevens, các nghị sỹ được mệnh danh là những đảng viên Đảng Cộng hòa cấp tiến, những người thận trọng với công cuộc tái thiết nhanh gọn, đã từ chối sắp xếp chỗ cho các Thượng nghị sỹ và Hạ nghị sỹ của miền Nam mới được bầu. Sau đó trong vòng vài tháng tiếp theo, Quốc hội đã nhóm họp thảo ra một kế hoạch tái thiết miền Nam rất khác với kế hoạch do Lincoln đã bắt đầu và Johnson đã tiếp tục.

Sự ủng hộ rộng rãi của dư luận dần dần phát triển có lợi cho các nghị sỹ Quốc hội chủ trương những người da đen cần được trao quyền công dân hoàn toàn. Cho tới tháng 7/1866, Quốc hội đã thông qua dự luật các quyền dân sự và thành lập một Cục Phụ trách nô lệ mới được giải phóng – cả hai việc này đều nhằm ngăn ngừa sự phân biệt chủng tộc do các cơ quan lập pháp miền Nam tiến hành. Tiếp theo việc này, Quốc hội đã thông qua Điều bổ sung sửa đổi thứ 14 của Hiến pháp, điều khoản này nói rằng tất cả mọi người sinh ra trên nước Mỹ hay được nhập quốc tịch Mỹ, và vì thế có quyền lợi pháp lý, đều là công dân của Hợp chủng quốc và của các bang nơi họ cư trú. Điều bổ sung sửa đổi này đã bãi bỏ luật Dred Scott vốn phủ nhận quyền công dân của nô lệ.

Tất cả các cơ quan lập pháp bang miền Nam, ngoại trừ bang Tennessee, đều đã khước từ phê chuẩn Điều bổ sung sửa đổi này, một số bang đồng lòng bỏ phiếu chống lại. Hơn nữa, các cơ quan lập pháp bang ở miền Nam đã thông qua nhiều bộ luật để quản lý người da đen tự do. Các luật này khác nhau ở các bang, nhưng một số điều khoản là chung. Người da đen bị đòi hỏi phải tham gia các hợp đồng lao động thường niên với những hình phạt được thực thi trong trường hợp vi phạm; trẻ em sống phụ thuộc phải bắt buộc học việc và bị chủ trừng phạt bằng roi vọt; và những người lang thang có thể bị đem bán để làm việc cho tư nhân nếu họ không thể trả các khoản tiền phạt nặng nề.

Nhiều người miền Bắc cho rằng phản ứng này của miền Nam là nỗ lực nhằm tái lập chế độ nô lệ và không công nhận chiến thắng của Liên bang trong cuộc Nội chiến. Việc Johnson, mặc dù là người ủng hộ Liên bang, là một đảng viên Đảng Dân chủ ở miền Nam với thói quen dùng từ hoa mỹ quá mức và ghét thỏa hiệp chính trị cũng không giúp giải quyết được tình hình này. Đảng Cộng hòa chiếm đa số trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1866. Sau khi có quyền lực, những người Cấp tiến đã áp đặt chương trình Tái thiết theo ý họ.

Trong Đạo luật Tái thiết thông qua tháng 3/1867, Quốc hội đã phớt lờ những chính phủ đã được thành lập ở các bang miền Nam và chia miền Nam thành năm khu vực quân sự, mỗi khu vực do một viên tướng của Liên bang điều hành. Việc quản lý quân sự thường xuyên sẽ không áp dụng cho những bang mà ở đây đã thành lập các chính phủ dân sự phê chuẩn Điều bổ sung sửa đổi thứ 14 và chấp nhận quyền bầu cử của người da đen. Những người ủng hộ phe ly khai và không tuyên thệ trung thành với nước Mỹ thường không được đi bầu cử. Điều bổ sung sửa đổi thứ 14 được phê chuẩn năm 1868. Điều bổ sung sửa đổi thứ 15 được Quốc hội thông qua vào năm sau đó và được các cơ quan lập pháp bang phê chuẩn năm 1870 đã quyết định rằng quyền đi bầu cử của công dân Hoa Kỳ sẽ không bị phủ nhận hay hạn chế bởi Chính phủ Hoa Kỳ hay chính phủ bất kỳ bang nào vì lý do chủng tộc, màu da hay tình trạng nô lệ trước đây.

Những đảng viên Cộng hòa cấp tiến trong Quốc hội đã nổi khùng lên vì những lần phủ quyết (mặc dù những phủ quyết này đã bị bác bỏ) của Tổng thống Johnson đối với luật bảo vệ những người da đen mới được giải phóng và trừng phạt những thủ lĩnh của phe ly khai trước đây bằng cách tước bỏ quyền tham gia quản lý nhà nước của họ. Mối ác cảm của Quốc hội đối với Johnson lớn đến mức, lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, việc luận tội đã được tiến hành nhằm bãi miễn tổng thống.

Hành động chống đối chính của Johnson là việc ông đối đầu với các chính sách trừng phạt của Quốc hội và thứ ngôn ngữ thô bạo mà ông dùng để phê phán các chính sách đó. Sự buộc tội theo luật pháp nghiêm trọng nhất mà những kẻ thù của ông có thể nhằm vào chống lại ông là tuy đã có Luật Bổ nhiệm (một đạo luật đòi hỏi sự tán thành của Thượng viện về việc bãi miễn bất kỳ quan chức nào mà Thượng viện trước đây đã phê chuẩn bổ nhiệm) nhưng ông đã bãi nhiệm khỏi Nội các của mình viên Bộ trưởng Chiến tranh, một người ủng hộ trung thành của Quốc hội. Khi việc luận tội được tiến hành tại Thượng viện, Johnson đã được chứng minh là ông bãi nhiệm thành viên Nội các của mình theo đúng quyền hạn. Thậm chí còn quan trọng hơn khi người ta vạch rõ rằng một tiền lệ nguy hiểm sẽ được lập ra nếu Quốc hội buộc phải bãi nhiệm một tổng thống chỉ vì ông bất đồng với đa số các nghị sỹ của Quốc hội. Việc bỏ phiếu cuối cùng đã không đạt đủ hai phần ba số phiếu theo yêu cầu để kết tội ông.

Johnson tiếp tục tại vị cho đến khi nhiệm kỳ của ông kết thúc vào năm 1869, nhưng Quốc hội đã thành lập được uy lực của mình cho tới tận cuối thế kỷ XIX. Chiến thắng của Đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1868, viên cựu tướng của Liên bang Ulysses S. Grant, đã giúp cho việc triển khai những chính sách tái thiết mà phe Cấp tiến khởi xướng.

Cho tới tháng 6/1868, Quốc hội đã tái chấp nhận phần lớn các bang thuộc phe ly khai vào liên bang. Trong nhiều bang được tái thiết này, đa số các thống đốc, Hạ nghị sỹ và Thượng nghị sỹ là người miền Bắc – những người được mệnh danh là đám người đầu cơ chính trị- họ đã đến miền Nam sau chiến tranh để sắp đặt thời vận chính trị của mình, thường là liên minh với những người Mỹ gốc Phi mới được giải phóng khỏi ách nô lệ. Trong các cơ quan lập pháp ở bang Louisiana và Nam Carolina, người Mỹ gốc Phi đã thực sự giành được đa số ghế.

Nhiều người da trắng miền Nam do ưu thế chính trị và xã hội của họ bị đe dọa nên đã quay sang dùng những biện pháp bất hợp pháp đề ngăn chặn người da đen giành được quyền bình đẳng. Bạo lực chống người da đen của các tổ chức bất hợp pháp như Ku Klux Klan trở nên ngày càng thường xuyên. Vào năm 1870 sự hỗn loạn phát triển mạnh dẫn tới việc thông qua các Đạo luật Cưỡng chế năm 1870 và 1871 trừng phạt nghiêm khắc những kẻ nào âm mưu tước đoạt những quyền dân sự của người nô lệ da đen đã được giải phóng.

Kết thúc công cuộc tái thiết

Thời gian càng trôi qua thì người ta càng thấy rõ ràng hơn là những vấn đề của miền Nam không thể giải quyết được bằng những luật lệ khắc nghiệt và tiếp tục tạo mối hiềm thù chống lại các bang thuộc phe ly khai trước đây. Hơn nữa, một số chính quyền bang Cấp tiến miền Nam với đa số quan chức người Mỹ gốc Phi đã có dấu hiệu tham nhũng và kém hiệu quả. Nước Mỹ đã nhanh chóng trở nên mệt mỏi với nỗ lực áp đặt nền dân chủ cấp tiến và giá trị tự do đối với miền Nam bằng sức mạnh quân sự của Liên bang. Tháng 5/1872, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Ân xá chung nhằm phục hồi các quyền chính trị cho tất cả mọi người, ngoại trừ chừng 500 kẻ nổi loạn trước đây.

Dần dần các bang miền Nam bắt đầu bầu các đảng viên Đảng Dân chủ vào các chức vụ, trục xuất các chính quyền được gọi là đầu cơ chính trị và hăm dọa người da đen đi bỏ phiếu hay cố gắng nắm giữ các chức vụ quản lý nhà nước. Cho đến năm 1876, các đảng viên Đảng Cộng hòa cầm quyền chỉ ở ba bang miền Nam. Như một phần của việc mặc cả nhằm giải quyết các cuộc bầu cử tổng thống còn đang tranh cãi vào năm đó có lợi cho Rutherford B. Hayes, Đảng Cộng hòa đã hứa rút quân đội liên bang đồn trú tại miền Nam nhằm hỗ trợ cho các chính quyền của Đảng Cộng hòa. Vào năm 1877, Hayes đã thực thi lời hứa của mình, ngầm ý từ bỏ trách nhiệm của liên bang nhằm thi hành các quyền dân sự của người da đen.

Miền Nam vẫn là một vùng bị tàn phá bởi chiến tranh, chịu gánh nặng nợ nần chồng chất do quản lý nhà nước kém và những hủ tục vì một thập niên chiến tranh chủng tộc. Thật không may, con lắc của chính sách quốc gia về chủng tộc đã văng từ thái cực này sang thái cực khác. Trước đây Chính phủ Liên bang đã ủng hộ những hình phạt tàn nhẫn chống lại các thủ lĩnh da trắng miền Nam, thì ngày nay chính phủ lại khoan dung cho những kiểu phân biệt chủng tộc chống người da đen kiểu mới. Hai mươi lăm năm cuối thế kỷ XIX đã chứng kiến vô số việc giống như luật lệ Jim Crow ở các bang miền Nam, luật này phân biệt chủng tộc ở các trường công, cấm hoặc hạn chế người da đen vào nhiều khu vực công cộng như quán ăn, công viên và khách sạn; phủ nhận quyền của phần lớn người da đen được đi bỏ phiếu bằng việc đánh các sắc thuế thân và thực hiện các cuộc kiểm tra tình trạng biết đọc biết viết một cách tùy tiện. Jim Crow là thuật ngữ bắt nguồn từ một bài hát trong một buổi hát rong năm 1828 và trong buổi diễn này lần đầu tiên một người da trắng biểu diễn với bộ mặt đen.

Các nhà sử học có khuynh hướng phán xét nghiêm khắc công cuộc Tái thiết như một giai đoạn của xung đột chính trị, tham nhũng và thụt lùi và công cuộc Tái thiết này đã không đạt được những mục tiêu cao cả đề ra mà còn rơi vào tình trạng phân biệt chủng tộc nguy hiểm. Nô lệ đã có tự do nhưng miền Bắc hoàn toàn không đáp ứng được nhu cầu kinh tế của họ. Cục Phụ trách Nô lệ được giải phóng không có khả năng đem lại cơ hội về kinh tế và chính trị cho người nô lệ được trả tự do. Quân đội liên bang đồn trú thường thậm chí không bảo vệ người da đen trước bạo lực và đe dọa. Thực ra thì chính các sỹ quan quân đội liên bang và các nhân viên Cục Phụ trách Nô lệ được giải phóng thường lại là người theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Không có các nguồn lực kinh tế của riêng mình, nhiều người da đen miền Nam bắt buộc phải trở thành những nông dân làm thuê trên mảnh đất mà các chủ cũ của họ đã sở hữu, họ lại bị ném vào cái guồng nghèo đói mà sẽ còn tiếp tục cho tới thế kỷ XX.

Các chính phủ của thời kỳ tái thiết đã tạo ra những lợi ích đích thực trong việc xây dựng lại các bang miền Nam vốn bị phá hoại do chiến tranh và trong việc mở rộng các ngành dịch vụ công cộng, nổi bật là trong việc thiết lập những trường học công không phải đóng tiền dành cho người da đen và người da trắng. Tuy nhiên, những người miền Nam bất trị, ngoan cố đã rình chộp lấy các trường hợp về nạn tham nhũng, sa đọa (vốn chẳng hiếm hoi gì ở miền Nam thời kỳ ấy) và lợi dụng chúng để phá hoại các chế độ cấp tiến. Sự thất bại của công cuộc Tái thiết có nghĩa rằng, cuộc đấu tranh của người Mỹ gốc Phi giành quyền bình đẳng và tự do đã bị lui lại cho tới thế kỷ XX – khi cuộc đấu tranh ấy trở thành vấn đề của cả dân tộc, chứ không phải của chỉ riêng miền Nam.

Nội chiến và hình thái chính trị mới của Hoa Kỳ

Những mâu thuẫn của thập niên 1850 đã làm tan rã Đảng Whig, sáng lập ra Đảng Cộng hòa và chia rẽ Đảng Dân chủ theo hai miền. Cuộc Nội chiến cho chúng ta thấy rằng những người của Đảng Whig đã không thể duy trì được đảng của mình và những đảng viên Cộng hòa là những người đã tồn tại được. Cuộc Nội chiến cũng đặt ra nền tảng cho sự thống nhất của Đảng Dân chủ.

Đảng viên Đảng Cộng hòa đã thay thế đảng viên Đảng Whig ở miền Bắc và miền Tây bởi Đảng Cộng hòa không chỉ đơn thuần là một lực lượng chống lại chế độ nô lệ /ủng hộ chế độ tự do. Hầu hết lãnh đạo của Đảng Cộng hòa đều xuất thân từ Đảng Whig và họ kế tục những lợi ích của Đảng Whig trong chương trình phát triển quốc gia do liên bang hỗ trợ. Việc chỉ đạo chiến sự không hề ảnh hưởng đến việc Đảng Cộng hòa ban hành thuế quan bảo hộ (năm 1861) nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp chế tạo của Mỹ, Đạo luật Homestead (1862) nhằm khuyến khích việc định cư của người châu Âu, Đạo luật Morill (1862) nhằm tạo nền tảng cho các trường đại học công nghệ và nông nghiệp và hàng loạt các Đạo luật Đường sắt Thái Bình Dương (1862-1864) nhằm xây dựng tuyến đường sắt xuyên lục địa. Những biện pháp này đã tập hợp được sự ủng hộ khắp Liên bang từ các nhóm coi vấn đề nô lệ là vấn đề quan trọng thứ hai và đảm bảo được sự kế tục của Đảng Cộng hòa như là đại diện mới nhất của một nhóm chính trị do Alexander Hamilton và Henry Clay lãnh đạo.

Nội chiến cũng tạo cơ sở cho sự thống nhất của Đảng Dân chủ bởi phe phản đối chiến tranh ở miền Bắc chính là Đảng Dân chủ. Có thể là do chủ trương của đảng này là chủ quyền nhân dân nên một số đảng viên Dân chủ cho rằng việc tiến hành chiến tranh toàn diện để duy trì Liên bang là điều phi lý. Đây là nhóm có tên Dân chủ Hòa bình. Những phần tử cực đoan của nhóm này được gọi là Rắn hổ mang.

Hơn nữa, rất ít đảng viên Dân chủ, dù theo phe chủ chiến hay chủ hòa, cho rằng việc giải phóng nô lệ không đáng phải đánh đổi bằng xương máu của người miền Bắc. Đảng Dân chủ từ lâu đã có chính sách chống lại việc giải phóng nô lệ. Chẳng hạn như vào năm 1862, gần như tất cả đảng viên Đảng Dân chủ ở Quốc hội đã bỏ phiếu chống lại việc xóa bỏ chế độ nô lệ ở Quận Columbia và cấm chế độ nô lệ ở các bang khác.

Phần lớn sự phản đối này là của tầng lớp lao động nghèo, đặc biệt là từ những người nhập cư gốc Đức và Ai-len theo đạo Thiên Chúa. Họ sợ rằng những người da đen được tự do sẽ nhập cư ồ ạt lên phía Bắc. Họ cũng bực tức với việc đưa ra dự thảo luật quân sự (tháng 3/1863) có ảnh hưởng bất công đối với họ. Những cuộc bạo loạn sắc tộc đã nổ ra tại một vài thành phố ở miền Bắc. Cuộc bạo loạn tồi tệ nhất xảy ra ở New York từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 7/1863 do Thống đốc Horatio Seymour thuộc Đảng Dân chủ phản đối chính sách cưỡng ép tòng quân. Đội quân Liên bang vừa mới giao chiến vài ngày trước đó tại Gettysburg đã được cử đến New York để vãn hồi trật tự.

Phe Cộng hòa theo đuổi cuộc chiến không phải vì họ quan tâm đến tự do dân sự. Tháng 9/1862, Lincoln đã đình chỉ lệnh đình quyền giam giữ vào áp đặt quân luật đối với những ai ngăn cản việc tuyển quân hay trợ giúp cho phe phản loạn. Sự vi phạm dân luật này, mặc dù là hợp hiến khi có khủng hoảng, đã tạo ra cơ hội cho phe Dân chủ chỉ trích Lincoln. Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Edwin Stanton đã thực thi quân luật rất nghiêm khắc và hàng ngàn người – phần lớn là những người ủng hộ miền Nam hay đảng viên Đảng Dân chủ – đã bị bắt.

Cho dù Liên bang đã dành thắng lợi tại Vicksburg và Gettysburg năm 1863, các ửng cử viên phe chủ hòa của Đảng Dân chủ vẫn tiếp tục lợi dụng lá bài sắc tộc và sự bất hạnh của dân tộc. Thực ra, tâm lý người miền Bắc chính là điều mà Lincoln cho rằng ông sẽ bị mất điểm trong cuộc tái tranh cử ghế tổng thống tháng 11/1864. Chủ yếu là vì lý do này mà Đảng Cộng hòa đã đổi tên là Đảng Liên bang và dự định đưa Andrew Johnson, đảng viên Dân chủ bang Tennessee, làm liên danh tranh cử với Lincoln. Chiến thắng của Sherman ở miền Nam đã đảm bảo cho chiến thắng trong bầu cử của họ.

Việc Lincoln bị ám sát, sự phát triển của chủ nghĩa Cộng hòa Cấp tiến và sự lãnh đạo tồi của Johnson đã dẫn đến một hình thái chính trị thời hậu chiến theo đó Đảng Cộng hòa đã bị tổn thất khi cố gắng xây dựng lại miền Nam trong khi phe Dân chủ thông qua những chỉ trích của họ đối với công cuộc Tái thiết đã liên minh với người da trắng chiếm đa số ở miền Nam thuộc phe ly khai mới. Vị thế anh hùng dân tộc của Grant đã giúp phe Cộng hòa chiến thắng trong hai cuộc bầu cử tổng thống, nhưng khi miền Nam đã hồi phục từ công cuộc Tái thiết thì rõ ràng là nước Mỹ lại gần như bị chia đôi với hai đảng chính trị.

Đảng Cộng hòa chiếm ưu thế vượt trội ở vùng công nghiệp Đông Bắc cho tới tận thập niên 1930 và mạnh ở các bang không thuộc miền Nam. Tuy nhiên, uy tín của Đảng Cộng hòa vì có chính phủ mạnh và chính sách quốc gia tốt ngày càng được coi là do họ ủng hộ giới tài phiệt và doanh nghiệp lớn.

Khi Tổng thống Hayes kết thúc công cuộc Tái thiết, ông hy vọng rằng có thể phát triển được Đảng Cộng hòa ở miền Nam với việc sử dụng cựu đảng viên Đảng Whig làm tiền đề và lấy việc phát triển miền Nam làm vấn đề chính. Nhưng vào thời điểm đó, người da trắng chiếm đa số ở miền Nam lại coi chủ nghĩa Cộng hòa là chủ nghĩa đề cao vị thế người da đen mà họ rất ghét. Trong 75 năm sau đó thì miền Nam hoàn toàn thuộc về phe Dân chủ. Trong suốt thời gian đó, Đảng Dân chủ quốc gia chỉ nhất nhất đi theo đường lối quyền lợi của bang và phớt lờ quyền công dân. Nhóm bị tổn hại lớn nhất từ di sản của công cuộc Tái thiết chính là nhóm người Mỹ gốc Phi.

Xem thêm: Các chương khác trong cuốn Outline of US History

Nguồn: ĐSQ Hoa Kỳ tại Việt Nam