Nguồn: “Why China wants to go to Mars”, The Economist, 22/02/2017.
Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Cuộc chạy đua vào không gian đang chuyển sang châu Á.
Tuần trước, Ấn Độ đã thiết lập một kỷ lục thế giới bằng cách phóng 104 vệ tinh từ một tên lửa duy nhất. Thành tựu này đã thêm dầu vào “cuộc chạy đua vào không gian” của châu Á chỉ vài tuần sau khi Trung Quốc công bố một danh sách rút gọn gồm tám tên gọi có thể được đặt cho con tàu vũ trụ lên sao Hỏa đầu tiên của mình, dự kiến sẽ phóng vào năm 2020. Từ những khái niệm mang tính tinh thần (như “Truy Mộng” hay “Thiên Vấn”) đến những sinh vật tưởng tượng (như “Phụng Tường”, hay “Thăng Long”), chúng thể hiện những kỳ vọng lớn mà giới lãnh đạo đất nước dành cho sứ mạng này.
Ban giám khảo, những người đã lựa chọn những cái tên cuối cùng từ một danh sách gồm 35.900 mục, sẽ phải công bố sự lựa chọn của mình vào ngày 24/4, Ngày Vũ trụ chính thức của đất nước. Sự phô trương này cách hàng năm ánh sáng so với cung cách bí mật mà chương trình không gian của Trung Quốc đã từng có. Quốc gia này tuyên bố một tầm nhìn mới đầy tham vọng để thăm dò không gian, một tầm nhìn mà các tổ chức phương Tây cũng dè dặt. Khi mà phần lớn thế giới dường như đang bận rộn với các vấn đề trần thế hơn, tại sao Trung Quốc lại thiết tha với việc gửi tàu thăm dò vào hệ mặt trời đến như vậy?
Vươn tới sao Hỏa sẽ chứng minh rằng hành trình dài của Trung Quốc để tiến vào hàng ngũ các cường quốc không gian hàng đầu thế giới cuối cùng cũng hoàn tất. Được thành lập vào năm 1956, chương trình không gian của Trung Quốc đã bị gián đoạn do cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao. Những nguồn lực của nó bị hạn chế trong suốt hầu hết những năm 1980, khi những cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình tập trung chủ yếu vào phát triển kinh tế. Chỉ đến thập niên tiếp theo, Trung Quốc mới bắt đầu coi tiến bộ về lĩnh vực không gian mang tầm quan trọng chiến lược. Sự thay đổi này một phần là do cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, trong đó các tên lửa do vệ tinh dẫn đường đã giúp đưa liên minh do Mỹ đứng đầu đến với một chiến thắng nhanh chóng.
Nhưng những nỗ lực của Trung Quốc để học hỏi từ các quốc gia thành công trong khoa học không gian khác thường thất bại. Một dự án hợp tác kéo dài cả thập niên, vốn đã phóng hàng tá vệ tinh của Mỹ bằng tên lửa của Trung Quốc, đã bị ngừng lại vào năm 1999, sau một loạt các thất bại và những cáo buộc về trộm cắp công nghệ. Taikonauts – các phi hành gia hay nhà du hành vũ trụ của Trung Quốc – chưa bao giờ được phép đặt chân lên Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS); còn sự tham gia ban đầu của Trung Quốc trong hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu của châu Âu, Galileo, cũng chẳng đi về đâu. Khi các cơ hội hợp tác giảm đến mức nhỏ giọt, Trung Quốc đã tăng cường gấp đôi những nỗ lực trong nước để phát triển công nghệ vũ trụ. Việc tàu thăm dò sao Hỏa đầu tiên của Trung Quốc bị mất vào năm 2011, do được phóng lên bởi một tên lửa bị trục trặc của Nga, đã càng khẳng định ưu tiên của quốc gia này.
Từ việc quan sát trái đất tới việc đưa con người bay vào không gian, kể từ đó đến nay Trung Quốc đã thành công vang dội trong việc phát triển năng lực toàn diện. Nhưng hạ cánh tàu vũ trụ của riêng mình trên sao Hỏa sẽ là một hành động phi thường (một tàu thăm dò chung Nga-Châu Âu đã bị rơi khi theo đuổi cùng mục tiêu vào tháng 10/2016). Nó cũng sẽ mang lại cho Trung Quốc một cơ hội để vượt qua Ấn Độ, quốc gia có tàu thăm dò sao Hỏa đầu tiên đến được hành tinh này vào tháng 09/2014. Uy tín trong nước mà Đảng Cộng sản giành được sẽ là rất lớn, từ đó cũng mang lại uy tín cho “Giấc mộng Trung Hoa” của Chủ tịch Tập Cận Bình, trong đó kêu gọi khôi phục sự vĩ đại đã mất của quốc gia này.
Mục đích khoa học của nhiệm vụ này cũng rất quan trọng: thăm dò khí quyển của sao Hỏa để tìm kiếm khí metan và chụp hình ảnh bằng radar từ 400 mét dưới mặt đất. Trong dài hạn, phi hành đoàn đầu tiên đang được xem xét để được gửi lên sao Hỏa, dự kiến vào giữa những năm 2030. Nó được dự kiến sẽ là một dự án đa quốc gia, do những thách thức kỹ thuật là quá lớn; một nhóm 13 quốc gia hiện đã tồn tại để điều phối dự án này. Trung Quốc dự định là một trong những quốc gia dẫn đầu.
Các cường quốc phương Tây từ lâu đã dao động về chương trình không gian của Trung Quốc. Phần lớn các công nghệ mà Chương trình này phát triển có thể được sử dụng cho cả mục đích dân sự và quân sự, và nó được liên kết chặt chẽ với Quân đội Giải phóng Nhân dân. Lo ngại về việc chuyển giao công nghệ, Mỹ và các đồng minh phần lớn đã né tránh các câu hỏi về cách phản hồi các đề nghị hợp tác mà Trung Quốc nhắc đi nhắc lại. Họ có thể sẽ phải quyết định sớm trước khi có bất cứ phi hành đoàn nào được gửi lên sao Hỏa. Trạm không gian (CSS) hoàn thiện đầu tiên của Trung Quốc dự kiến sẽ được hoàn thành và hoạt động vào năm 2022, một vài năm trước khi ISS hết hạn sử dụng. Trung Quốc đã nhận được sự ủng hộ chính thức của Liên Hiệp Quốc để mở cửa CSS cho các quốc gia không có khả năng tiếp cận vũ trụ. Nếu hai cường quốc không thể thiết lập lại quan hệ hữu nghị giữa các chương trình không gian lớn nhất thế giới của mình trước thời điểm đó, hai trạm vũ trụ, đại diện cho gần như hai nửa của thế giới bên dưới, sẽ du hành trong những quỹ đạo của riêng mình.
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]