Dự báo chính sách đối ngoại của chính quyền Biden (P3)

Print Friendly, PDF & Email

Tác giả: Nguyễn Quang Dy

Đánh giá các thách thức đến từ Trung Quốc

Thời chiến tranh lạnh, để đối phó với Liên Xô, George Kennan đã viết “Nguồn gốc Hành vi của Liên Xô”, sau đó đã trở thành kinh điển. Nay để đối phó với Trung Quốc, một số tác giả bắt chước Kennan lý giải hiện tượng Trung Quốc trỗi dậy và đề xuất cách đối phó. Giáo sư Odd Arne Westad (Đại học Yale) viết The Sources of Chinese Conduct (Nguồn gốc hành vi của Trung Quốc).

Tháng 11/2020, Vụ Hoạch định Chính sách Bộ Ngoại giao Mỹ đã báo cáo về “Các khía cạnh của thách thức từ Trung Quốc” cho rằng Trung Quốc muốn thay đổi trật tự thế giới để phục vụ mục tiêu độc đoán và tham vọng bá quyền của họ. Theo Odd Arne Westad, để đối phó với Trung Quốc, Mỹ không thể hành động một mình.

Tuy báo cáo của Bộ Ngoại giao chuẩn bị cho “nhiệm kỳ hai của Trump”, nhưng nó liên quan đến các vấn đề của chính quyền Biden. Có lẽ chỗ yếu nhất của báo cáo là ý tưởng “dùng giải pháp của thế kỷ 20 để giải quyết vấn đề của thế kỷ 21”. Dù nhận định của báo cáo gần đúng với sự thật, nhưng giải pháp mà nó đề xuất có thể thất bại vì Bộ Ngoại giao đã hiểu sai về Bắc Kinh. Vì vậy, cần xem xét các mục tiêu cơ bản của Bắc Kinh là gì?

Một là, Trung Quốc tiếp tục trỗi dậy để kinh tế mạnh hơn và củng cố sự lãnh đạo lâu dài của đảng ở trong nước. Hai là, Trung Quốc tiếp tục triển khai sức mạnh vượt trội tại Châu Á gồm phía Tây Thái Bình Dương, khu vực Trung Á và Đông Nga, vùng Himalaya và Ấn Độ Dương. Các mục tiêu này khá thuận lợi vì Nga và Nhật đều ốm yếu, còn Mỹ thì thất thường. Nhưng thái độ của Trung Quốc còn bị tác động bởi các yếu tố trong nước. Vì vậy, nếu báo cáo chỉ đổ lỗi cho sai lầm của Mỹ thì không chỉ chủ quan và sai lầm mà còn nguy hiểm.

Cách tốt nhất để Mỹ triển khai chiến lược là lợi dụng mâu thuẫn giữa hai mục tiêu cơ bản của Trung Quốc là vừa tăng trưởng kinh tế, vừa bành trướng ra ngoài. Mỹ cần tăng sức ép để buộc Trung Quốc phải chọn giữa hai mục tiêu đó. Chính quyền Biden cần nỗ lực hơn chính quyền Obama và Trump để giúp các nước Châu Á chống lại sức ép của Trung Quốc, như tăng cường sức mạnh quân sự của Mỹ tại Indo-Pacific và thúc đẩy thương mại, đầu tư, công nghệ, khuyến khích Trung Quốc tuân thủ hiệp định và trừng phạt nếu họ vi phạm.

Báo cáo đề xuất rằng lợi ích của Mỹ là phải hủy bỏ và xây dựng lại có chọn lọc các thể chế quốc tế hiện hành. Với so sánh lực lượng hiện nay, đó là một ý tưởng điên rồ. Việc chính quyền Trump không thiết tha ủng hộ các tổ chức khu vực như EU và ASEAN nhằm tăng cường hợp tác đa phương, cũng là một sai lầm. Mỹ chỉ dựa vào sức mình là quá sức do thực tế hiện nay không giống thời Chiến tranh Lạnh bắt đầu. Lúc đó, Mỹ chiếm gần 50% GDP toàn cầu, nhưng Mỹ vẫn cần sự hỗ trợ của các nước đồng minh để giành thắng lợi.

Hiện nay, Mỹ chỉ chiếm một tỷ trọng GDP bằng một nửa thời trước. Nếu kinh tế Mỹ không đổi mới thì nó sẽ tiếp tục đà suy thoái. Hơn nữa, hệ thống chính trị gồm hai đảng của Mỹ không ổn định, và Washington không đủ năng lực để đối phó với đại dịch Covid-19, làm bộc lộ những điểm yếu của Mỹ. Hiện nay, đối với các nước trên thế giới, các chính sách và thể chế của Mỹ không còn là hình mẫu để họ noi theo. Việc báo cáo đề cao các chính sách của Mỹ nhằm “đem lại tự do” đã hoàn toàn bỏ qua một thực tế cơ bản hiện nay là Mỹ chỉ có thể cạnh tranh hiệu quả với Trung Quốc nếu họ chịu cải cách thể chế trong nước.

Theo Joseph Nye (cựu thứ trưởng quốc phòng), nhiều đồng minh tự hỏi điều gì đang xảy ra với nền dân chủ Mỹ. Nếu Mỹ đã sinh ra một lãnh đạo như Donald Trump năm 2016 thì liệu có thể lặp lại vào năm 2024 hay 2028? Phải chăng nền dân chủ suy thoái, làm cho Mỹ không còn đáng tin. Nhưng bất chấp dự đoán của cánh tả về sự suy sụp và của cánh hữu về sự gian lận, nền dân chủ Mỹ đã chứng tỏ sức sống bền bỉ. Nếu Trump kiểm soát được đảng Cộng hòa và nếu Cộng hòa vẫn nắm đa số tại Thượng viện thì Biden sẽ rất khó khăn. Điều đó lý giải tại sao tranh cử tại bang Georgia lại quan trọng như vậy.

Để đánh giá về nguồn gốc sức mạnh của Trung Quốc, James Homes (Đại học Hải chiến) đã nhận định: “Bắc Kinh muốn thắng mà không cần phải đánh”. Bắc Kinh tin tưởng có thể thắng dù Trung Quốc yếu hơn Mỹ về tổng thể, vì Quân đội Trung Quốc (PLA) có thể đảo ngược so sánh lực lượng tại chiến trường để áp đảo đối phương tại nơi và lúc quyết định. Trung Quốc có thể tồn tại lâu hơn Mỹ bằng “chiến tranh nhân dân trên biển”, một học thuyết được Bắc Kinh vận dụng để đối phó với liên minh gồm Mỹ, Nhật, Úc, Ấn Độ…

PLA ngày nay có nhiều sự lựa chọn hơn Hồng quân trước kia. Thay vì chiến tranh nhân đân thuần túy kiểu Mao, PLA sẽ vận dụng tổng hợp các đơn vị lớn/nhỏ gồm tuần duyên, hải giám, và “dân quân biển” để đối phó với liên mình do Mỹ cầm đầu. Chiến sự có thể xảy ra khi “ngoại giao bằng cái gậy bé” (small-stick diplomacy) được Trung Quốc vận dụng để kiểm soát vùng biển họ đòi chủ quyền. Một khi điều đó trở thành “bình thường mới” hay “chuyện đã rồi” (fait accompli) thì nó sẽ có chính danh.

Theo báo chí, các nước phương Tây trước đây thường tránh làm mất lòng Bắc Kinh, nay đang xích lại gần hơn lập trường cứng rắn của Mỹ đối với Trung Quốc. Nếu trước đây, lãnh đạo EU coi Trung Quốc là “cơ hội” thì nay họ coi Trung Quốc là “đối thủ”. Năm ngoái, một báo cáo về chính sách của EU đã không coi Trung Quốc là đối tác (partner) hay đối tượng cạnh tranh (competitor) mà là “đối thủ hệ thống” (system rival). Khi một nhà ngoại giao Trung Quốc hỏi có thật EU coi Trung Quốc là đối thủ không, Tổng thống Pháp Macron đã nói thẳng “đúng thế” (You are a rival).

Theo một khảo sát của Pew Research (10/2020) mức độ bất tín nhiệm (distrust) đối với Tập Cận Bình lên rất cao ở hầu hết các nước được khảo sát. Tâm trạng này ở Châu Âu ngày càng lan rộng. Đại sứ EU ở Bắc Kinh nói năm ngoái sự ủng hộ Trung Quốc tại Châu Âu và các nơi khác đã giảm sút mạnh. Theo Wess Mitchell (cựu trợ lý ngoại trưởng Mỹ về Châu Âu) “đồng minh tốt nhất của chúng ta để coi Trung Quốc là đối thủ, chính là thái độ của họ”. Trong khi Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói họ coi Châu Âu là “đối tác chiến lược” (strategic partner) chứ không phải “đối thủ” (rival), thì Bắc Kinh luôn đe dọa trừng phạt các nước mỗi khi có bất đồng. Đại sứ Trung Quốc tại Thụy Điển có lần nói với báo chí: “đối với kẻ thù, chúng tôi có súng săn” (for our enemies, we got shotguns).

Tuy Úc phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế, nhưng là nước đầu tiên cấm công nghệ Huawei và kêu gọi thế giới điều tra Trung Quốc xử lý coronavirus. Tuy Ấn Độ là một trụ cột của phong trào không liên kết trên thế giới nhưng đang mở rộng hợp tác quân sự với Mỹ và đồng minh trong khi có chiến sự với Trung Quốc tại biên giới hai nước. Trong khi Đức vẫn thận trọng thì cuộc tranh luận về sự phụ thuộc của Châu Âu vào Trung Quốc ngày càng bức xúc. Đức có hơn 5.200 công ty kinh doanh tại Trung Quốc, nhưng đang chịu nhiều sức ép phải lên tiếng vì lợi ích của Châu Âu.

Nhiều người ảo tưởng Tập Cận Bình sẽ đưa Trung Quốc đi theo trật tự thế giới của Mỹ, nhưng đó là “một trong những tính toán chiến lược sai lầm lớn nhất thời hậu chiến tranh lạnh”. Tám năm qua, Tập theo đuổi tầm nhìn về tương lai Trung Quốc theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, bộc lộ tham vọng kiểm soát và thao túng chính trị làm ngạc nhiên giới tinh hoa Mỹ và Trung Quốc. Nay nhìn lại, người ta ngạc nhiên là Tập tìm cách khôi phục Mao để củng cố chính danh cho mình và cho Đảng, trước những cảnh báo về sự bất ổn trong 5 năm tới và lên án Tập đã biến Đảng thành “hình nhân chính trị”.

Triển vọng quan hệ Mỹ-Trung và khu vực

Cách đây mấy thập niên, Samuel Huntington đã viết trên Foreign Affairs rằng Mỹ có khả năng tự chỉnh sửa, và những người thuộc “trường phái suy thoái” (declinists) đóng vai trò không thể thiếu “trong việc ngăn chặn những gì mà họ dự báo”. Đối với Mỹ, suy thoái là do chính trị nên đó là một sự lựa chọn, vì vậy suy thoái là sự lựa chọn chứ không phải điều hiển nhiên. Suy thoái diễn ra trong hệ thống chính trị phân cực, với tổng thống Dân chủ sắp nhậm chức, trước một Thượng viện vẫn do Cộng hòa nắm đa số. Nhà báo Noah Smith (Bloomberg) cho rằng nếu đối nội Mỹ không thay đổi thì chỉ vài thập niên nữa “Mỹ sẽ giống như một nước đang phát triển”.

Theo Kurt Campbell (cựu trợ lý ngoại trưởng), chính sách Trung Quốc là tâm điểm của sự lựa chọn này. Trung Quốc càng quyết đoán thì Quốc hội và người dân càng đoàn kết xung quanh lo ngại về ý đồ lâu dài của Bắc Kinh và tác động của chủ nghĩa trọng thương (mercantilism). Đề ra chương trình nước Mỹ không dựa trên đối nội mà như là một phần của nỗ lực duy trì khả năng cạnh tranh của Mỹ đối với Trung Quốc có thể được lưỡng đảng ủng hộ.

Gần đây, giáo sư David Shambaugh (Đại học George Washington) đã xuất bản cuốn Where Great Powers Meet: America and China in Southeast Asia (Oxford University Press, 2020).  Trong cuốn sách đó, Shambaugh đã nhấn mạnh vị trí sống còn của Biển Đông trong bàn cờ địa chiến lược Mỹ – Trung. Hàng năm, khoảng 50.000 tàu thuyền qua lại trên Biển Đông, chiếm 40% thương mại và 25% vận tải dầu khí trên thế giới. Đặc biệt, Trung Quốc đã thay đổi thực địa, bồi đắp các đảo họ chiếm đóng trái phép thành “chuyện đã rồi”, và quân sự hóa các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa thành các căn cứ quân sự.

Các nước ASEAN tự hào về phong cách riêng của mình (ASEAN Way), như nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp vào nội bộ của nhau, và hợp tác tự nguyện. Tuy điều đó giúp các nước ASEAN gắn kết nhưng cũng bộc lộ các điểm yếu cơ bản, làm vô hiệu hóa khả năng của ASEAN đối phó với các vấn đề nhạy cảm như tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông và ngăn chặn Trung Quốc quân sự hóa các đảo họ chiếm đóng. Giới quan sát cho rằng các diễn đàn ASEAN chỉ là nơi “tranh cãi” (talk shops) mà không thực sự hiệu quả về mặt hành động.

Một số nước ASEAN bị mắc kẹt trong thế đối đầu Mỹ-Trung đã ngả theo Bắc Kinh (như Campuchia và Philippines). Tuy xu hướng này đáng lo ngại, nhưng không nên quá lo lắng và phóng đại, vì xu hướng đó có thể đảo chiều trong thời gian tới. Một là Bắc Kinh có thể đi quá xa và ra tay quá đà, như đòi hỏi quá nhiều và bóc lột quá đáng. Hai là các nhà ngoại giao Trung Quốc quen với lối tuyên truyền một chiều, dễ vô cảm với tâm trạng của khu vực. Ba là nhiều nước Đông Nam Á bị ảnh hưởng nặng nề bởi tâm lý “hậu thực dân”, nên rất dễ phản ứng trước thái độ ngạo mạn và quan hệ bất đối xứng.

Tổng giá trị thương mại giữa Mỹ và ASEAN khoảng 350 tỷ đô la Mỹ (năm 2018) trong khi tổng giá trị thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN là 587,8 tỷ đô la Mỹ (năm 2018). Tuy con số của Trung Quốc với ASEAN lớn hơn con số của Mỹ với ASEAN nhưng không quá xa, và ASEAN vẫn là bạn hàng lớn thứ tư của Mỹ. Trong khi đó, tổng giá trị đầu tư trực tiếp của Mỹ tại các nước ASEAN là $329 tỷ đô la Mỹ (bằng cả Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cộng lại).

Khi Trung Quốc bành trướng ở khu vực thì giới quan sát cho rằng quyền lực Mỹ bị suy yếu. Đó là một ngộ nhận vì ảnh hưởng kinh tế, văn hóa, an ninh của Mỹ ở khu vực còn rất lớn, xét trên nhiều mặt lớn hơn Trung Quốc. Trên thực tế, Trung Quốc được đánh giá quá cao, còn Mỹ bị đánh giá quá thấp. Tuy Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ nhưng chưa thống trị được khu vực.

Chính quyền Biden sẽ hàn gắn quan hệ với các nước đồng minh, nên vai trò của Nhật, Ấn Độ, Úc, và Hàn Quốc tại khu vực càng quan trọng. Đặc biệt, vai trò của Nhật ngày càng quan trọng đối với kinh tế và an ninh khu vực. Trong khi chính phủ Narendra Modi triển khai chính sách “Hành động Hướng Đông” (Act East) của Ấn Độ, thì Tổng thống Moon Jae-in thúc đẩy chính sách “Hướng Nam” (Southward Policy) của Hàn Quốc. Vì quan hệ Úc-Trung căng thẳng, nên Thủ tướng Morrison cũng đang điều chỉnh chính sách của Úc đối với khu vực.

Tuy vai trò của Mỹ với các nước đồng minh là then chốt, nhưng chính thái độ của Trung Quốc cũng là một lợi thế so sánh cho Mỹ ở khu vực. Bắc Kinh càng hung hăng bắt nạt các nước khu vực bằng “ngoại giao chiến lang”, tuyên truyền thô thiển, vô cảm với tâm trạng của khu vực, và không biết lắng nghe ý kiến phê phán, thì càng góp phần làm suy yếu quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc. Vì vậy, nếu chính quyền Biden biết lựa chọn ưu tiên, làm việc với khu vực một cách nhất quán như họ mong đợi, thì Mỹ có thể đối phó được với Trung Quốc.

Theo Kurt Campbell và Jake Sullivan (hai cố vấn đối ngoại chủ chốt của Joe Biden), mục tiêu của Washington là kiến tạo điều kiện thuận lợi để cùng tồn tại với Bắc Kinh trên bốn lĩnh vực cạnh tranh chính là quân sự, kinh tế, chính trị, và quản trị toàn cầu. Sai lầm cơ bản trước đây khi Mỹ hợp tác với Trung Quốc là cho rằng nó sẽ làm thay đổi cơ bản hệ thống chính trị, kinh tế, và chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Nay Mỹ có thể mắc lại sai lầm tương tự khi cho rằng cạnh tranh có thể làm Trung Quốc thay đổi, phải đầu hàng hay sụp đổ, điều mà hợp tác trước đây đã thất bại.

Trung Quốc ngày nay là một đối thủ khác hẳn với Liên Xô trước đây: đáng gờm hơn về kinh tế; tinh tế hơn về ngoại giao; linh hoạt hơn về hệ tư tưởng. Trung Quốc đã hội nhập sâu hơn với thế giới và nền kinh tế Mỹ. Chiến lược ngăn chặn của Mỹ được dựa trên dự báo là Liên Xô sẽ đến lúc sụp đổ vì nó mang theo “hạt giống suy tàn” như George Kennan đã tự tin vạch ra chiến lược ngăn chặn. Nhưng ngày nay không thể dự báo Trung Quốc như vậy vì thiếu cơ sở cho một chính sách ngăn chặn mới trên tiền đề là Trung Quốc cuối cùng sẽ sụp đổ. Mặc dù Trung Quốc đứng trước nhiều thách thức về dân số, kinh tế, và môi trường, nhưng đảng cộng sản đã chứng tỏ năng lực đáng kể có thể thích nghi với hoàn cảnh khó khăn.

Mỹ và Trung Quốc đối đầu tại Indo-Pacific, nơi có bốn điểm nóng là Biển Đông, Biển Hoa Đông, eo biển Đài Loan, và bán đảo Triều Tiên. Washington lo Trung Quốc đẩy Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương còn Bắc Kinh lo Mỹ dồn Trung Quốc vào bẫy. Đài Loan không chỉ là một điểm nóng, mà còn là một bài học thành công lớn trong lịch sử bang giao Mỹ – Trung, trong khi Biển Đông là tâm điểm của đối đầu Mỹ-Trung. Để hai siêu cường có thể chung sống hòa bình, Washington cần tăng cường răn đe và quản trị khủng hoảng, không để Bắc Kinh tự do đe dọa sử dụng vũ lực để tranh chấp chủ quyền và làm “chuyện đã rồi”. Elbridge Colby lập luận “có thể răn đe mà không cần sức mạnh để đương đầu với đối thủ đáng gờm”.

Để đảm bảo răn đe tại Indo-Pacific, Mỹ cần giảm đầu tư vào các hệ thống vũ khí đắt tiền nhưng dễ tồn thương như tàu sân bay, mà nên tăng đầu tư vào các hệ thống vũ khí bất đối xứng, được tạo ra để hạn chế sự phiêu lưu của Trung Quốc mà không quá tốn kém. Washington cần đa dạng hóa sự có mặt của quân đội Mỹ ở Đông Nam Á và vùng Biển Ấn Độ Dương mà không cần phải lập căn cứ quân sự cố định. Vì vậy, Mỹ cần xây dựng một mặt trận thống nhất gồm các đồng minh và đối tác cùng chí hướng.