Nguồn: Paul D. Miller (2012). “Five Pillars of American Grand Strategy”, Survival: Global Politics and Strategy, Vol. 54, No. 5, pp. 7 – 44.
Biên dịch và Hiệu đính: Nguyễn Thị Nhung
Bài liên quan: #6- Nước Mỹ ở Châu Á – Thái Bình Dương
Trong một bài viết trước trên Survival, tôi đã cho rằng, trái với niềm tin phổ biến hiện nay, Hoa Kỳ vẫn đang theo đuổi ít nhất một trụ cột của một đại chiến lược không công khai kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, đó là xây dựng nền hòa bình nhờ dân chủ (democratic peace).[1] Nền hòa bình nhờ dân chủ đã ảnh hưởng đến hầu hết các sáng kiến chính sách đối ngoại lớn của Mỹ trong ít nhất hai thập kỷ qua, và đúng như vậy: nó có nhiều điểm mạnh khiến người ta muốn thúc đẩy nó, bao gồm cả việc nó phù hợp với các giá trị mà cử tri Mỹ ủng hộ rộng rãi. Nhưng đấu tranh cho tự do chỉ là một phần của đại chiến lược của Mỹ, bên cạnh đó còn có bốn cấu phần khác: bảo vệ lãnh thổ Mỹ khỏi bị tấn công, duy trì thế cân bằng quyền lực giữa các cường quốc theo hướng có lợi cho Mỹ, trừng phạt những thành phần bất hảo, và đầu tư nâng cao quản trị tốt cũng như năng lực của các đồng minh ở nước ngoài.[2] Cũng như mục đích ủng hộ dân chủ, những mục tiêu rộng rãi này cũng nằm trọn trong xu thế chủ đạo của chính sách đối ngoại Mỹ khi giành được sự ủng hộ của cả hai đảng, và luôn được duy trì nhất quán đến mức đáng kinh ngạc trong nhiều thập kỷ.
Trên thực tế, cả năm trụ cột khi đặt cùng nhau tạo ra một hình ảnh mô tả khá chính xác về đại chiến lược của Hoa Kỳ ít nhất là từ chính quyền của Tổng thống Theodore Roosevelt, mặc dù có một số giai đoạn chính phủ chú trọng vào một vài trụ cột nhất định hơn những trụ cột khác. Chúng ta có thể nhận thấy nhiều sai lầm lớn trong chính sách đối ngoại của Mỹ giữa thế kỷ 20 (chẳng hạn như hỗ trợ không giới hạn đối với những chế độ độc tài cánh hữu, hay không nhìn nhận đúng bản chất của cuộc Chiến tranh Việt Nam và cả việc nước này hoàn toàn mù mờ về phong trào thánh chiến đang nổi lên trên toàn thế giới) phần nào là hậu quả tự nhiên từ chính sách Washington tập trung toàn diện vào cân bằng chống lại Liên Xô, dẫn đến bỏ bê các mục tiêu khác. Ngược lại, những thế mạnh của chính sách đối ngoại của Mỹ cũng được thể hiện rõ ràng qua việc hoàn toàn tập trung theo đuổi các mục tiêu liên quan đến lợi ích an ninh quốc gia của Mỹ.
Chính trong quá trình theo đuổi những mục tiêu này mà chính sách đối ngoại của Mỹ thay đổi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, và tương tự là các mối đe dọa mà chính sách của Mỹ phải đối phó. Ngày nay, Mỹ đang đối diện ba mối đe dọa chính. Thứ nhất, mối đe dọa tiên quyết với Hoa Kỳ và với trật tự tự do toàn cầu nói chung là sự hiện diện của các quốc gia độc tài hùng mạnh trang bị vũ khí hạt nhân. Không giống như trong Chiến tranh Lạnh khi Mỹ chỉ phải đối mặt với hai chế độ chuyên quyền có vũ khí hạt nhân, giờ đây con số này có nguy cơ sớm tăng thành năm quốc gia hạt nhân: ngoài Nga và Trung Quốc trước đây, hiện nay còn có Bắc Triều Tiên đã thử nghiệm một thiết bị hạt nhân, Iran có lẽ cũng đang trong quá trình tương tự, và thậm chí có thể cả Pakistan. Tất cả những quốc gia này nếu không công khai thù địch thì ít nhất cũng tỏ thái độ bất hợp tác với Mỹ. Mối đe dọa thứ hai không tồn tại trong Chiến tranh Lạnh mà đến từ mô hình các quốc gia thất bại và những thành phần bất hảo hoạt động bên trong các quốc gia này, chẳng hạn như cướp biển, tội phạm có tổ chức, các tập đoàn ma tuý và khủng bố. Mối đe dọa thứ ba, như nhà lý luận về chống nổi dậy của David Kilcullen đã từng gọi, là “cuộc nổi dậy Hồi giáo toàn cầu”,[3] đó là các chiến dịch của những chiến binh và khủng bố thánh chiến bạo lực nhằm mục tiêu đẩy những ảnh hưởng phương Tây ra khỏi “vùng đất Hồi giáo”, lật đổ chính phủ thế tục, thay thế bằng các chế độ thánh chiến, và cuối cùng là thiết lập uy quyền tối thượng nhân danh Hồi giáo trên toàn thế giới.[4]
Bảo vệ lãnh thổ
Để đối phó với những mối đe dọa trên, các nhà hoạch định chính sách Mỹ trước tiên phải đảm bảo an toàn về mặt thể chất cho tính mạng của người dân và lãnh thổ Mỹ. Tổng thống George Washington và John Adams trước đây đã đặt nhiệm vụ thiết lập các tổ chức an ninh quốc gia và bảo vệ tổ quốc là ưu tiên hàng đầu của chính phủ mới, từ đó cho thành lập Bộ Chiến tranh năm 1789, Hải quân Hoa Kỳ năm 1797 và Bộ Hải quân năm 1798. (Quân đội Mỹ thậm chí còn thành lập trước cả chính phủ). Dù ban đầu vai trò của các tổ chức này cũng gần giống những gì ngày nay chúng ta gọi là bảo vệ lãnh thổ hơn – tức là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và an toàn về thể chất cho nước Mỹ – nhưng thực tế vai trò của chúng còn bao gồm cả bảo vệ tính mạng công dân, tài sản và danh dự Mỹ ở nước ngoài. Tổng thống Adams đã tiến hành một cuộc chiến tranh không chính thức với Pháp vào năm 1798 để bảo vệ quyền giao thương trung lập của Mỹ, Tổng thống Thomas Jeferson và James Madison đã ra lệnh tấn công vào các quốc gia duyên hải của Bắc Phi vào năm 1805 và 1815 để bảo vệ các tàu của Mỹ, và Madison đã lãnh đạo Cuộc chiến tranh năm 1812 chống lại Vương quốc Anh để chấm dứt việc bắt giữ thủy thủ Mỹ.
Hoạt động bảo vệ lãnh thổ như cách hiểu của chúng ta ngày nay về cụm từ này từng được thực hiện tương đối lỏng lẻo trong thời kỳ trước thế kỷ 20 do vị trí địa lý độc đáo của Hoa Kỳ: ngăn cách với các cường quốc khác trên thế giới bởi hai đại dương lớn. Trong thế kỷ 19, bảo vệ lãnh thổ tiếp tục là trách nhiệm dành riêng cho quân đội. Ví dụ như quân đội Mỹ đã lãnh đạo các chiến dịch chống lại những bộ lạc Châu Mỹ bản địa lúc này đang cố gắng chống cự sự mở rộng của người Mỹ. Trong suốt Thế chiến thứ nhất, chính phủ Mỹ đã cho thành lập cơ quan tình báo chuyên trách đầu tiên (nhưng sau đó giải tán), và thông qua Đạo luật Chống Gián điệp (Espionage Act) để bảo vệ Mỹ trước các điệp viên ngầm của nước ngoài. Cục Điều tra Liên bang (FBI) đã đảm trách (và đôi khi lạm dụng) các vụ điều tra hoạt động gián điệp. Bên cạnh đó, trong năm 1924 Quốc hội đã thành lập Lực lượng
Biên phòng Mỹ (US Border Patrol) để kiểm soát làn sóng nhập cư ngày càng tăng. Nhưng phải đến sau Thế chiến thứ hai quân đội Mỹ và cộng đồng tình báo mới thiết lập một mạng lưới toàn cầu chuyên về khả năng trinh sát và giám sát nhằm ngăn chặn những cuộc tấn công bất ngờ như của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng năm 1941 tái diễn. Cơ quan Điều hành Hàng không Vũ trụ Bắc Mỹ (NORAD) được thành lập vào năm 1961 để hỗ trợ cho “việc phát hiện, xác nhận, và cảnh báo các cuộc tấn công nhằm vào Bắc Mỹ bằng máy bay, tên lửa, hoặc phương tiện không gian”.[5] Năm 1983, Tổng thống Ronald Reagan đã khởi xướng những nỗ lực phát triển một hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo để đối phóvới mối đe dọa của tấn công hạt nhân từ Liên Xô.
Mỗi giai đoạn phát triển của các lực lượng bảo vệ lãnh thổ Mỹ đều hướng tới mục tiêu đối phó với các mối đe dọa cụ thể nhắm vào lãnh thổ và công dân Mỹ. Ngày nay, nhờ công nghệ mới và xu thế toàn cầu hóa, các mối đe dọa đối với lãnh thổ và nhân mạng Mỹ cũng trở nên đa dạng hơn bao giờ hết. Nếu như hiện nay nguy cơ một cường quốc thù địch tiến hành xâm lược trên bộ khó có thể thành sự thực, thì Hoa Kỳ lại đang nằm trong tầm ngắm của những tên lửa đạn đạo, các loại vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học hoặc sinh học (triển khai bằng tên lửa hay những cách khác), tấn công khủng bố và cả tấn công mạng (do phần lớn nền kinh tế và cơ sở hạ tầng Mỹ đang ngày càng phụ thuộc vào kết nối mạng). Đáp lại, Hoa Kỳ phải phát triển khả năng phòng thủ tương thích, bao gồm các biện pháp an ninh biên giới, cửa khẩu và không gian mạng cũng như phòng thủ tên lửa.
Ví dụ, Mỹ phải bảo vệ chống lại các tác nhân phi nhà nước như Al-Queada – những kẻ luôn tìm cách tiến hành tấn công bạo lực trực tiếp đối với người Mỹ ngay trên đất Mỹ – bằng cách bảo vệ biên giới và các cửa khẩu của nước này, đồng thời thực thi các quy định nhập cư hợp lý. Phần lớn những biện pháp này đã được cải thiện kể từ cuộc tấn công khủng bố năm 2001. Quốc hội thành lập Cục An ninh vận tải (Transportation Security Administration) năm 2001 và Bộ An ninh Nội địa (Department of Homeland Defense) vào năm 2002, và vào năm 2004 Quốc hội đã ủy quyền tăng gần gấp đôi Lực lượng Biên phòng Mỹ bằng Đạo luật Cải cách tình báo và Phòng chống khủng bố (IRTPA). FBI đã hợp nhất chương trình chống khủng bố và các chương trình khác thành một Chi nhánh An ninh Quốc gia (National Security Branch) trong năm 2005. Cùng năm đó, Trung tâm Sàng lọc khủng bố (Terrorist Screening Center) của FBI bắt đầu thu thập và phổ biến các “Danh sách cấm bay” và “Danh sách Theo dõi khủng bố”. Di chuyển bất hợp pháp gặp nhiều khó khăn hơn do việc áp dụng các hộ chiếu sinh trắc học ở nhiều nơi trên thế giới
trong thập kỷ qua (trong đó có Hoa Kỳ trong năm 2006). Tuy nhiên, chế độ nhập
cư vẫn cần một cuộc cải tổ sâu rộng nhằm vừa đảm bảo dòng chảy tự do của lao
động nhập cư, sinh viên du học và nhân tài có tay nghề cao vào nước Mỹ trong khi vẫn có thể ngăn chặn những kẻ khủng bố và buôn lậu ma túy thâm nhập bất hợp pháp. Bên cạnh đó, an ninh cửa khẩu – phân nhiệm giữa Tuần duyên Mỹ, Hải quan và Bảo vệ Biên giới và Cơ quan Quản lý An ninh Vận tải – vẫn chưa được chú trọng phát triển khi các chương trình như Sáng kiến An ninh Công-ten-nơ (Container Security Initiative) quá bé nhỏ so với nhiệm vụ mà nó đảm trách.
Ngoài ra, chính phủ Hoa Kỳ phải bảo vệ chống lại nguy cơ xảy ra một vụ phóng tên lửa đạn đạo với đầu đạn hạt nhân, hóa học hoặc sinh học từ những thành phần bất hảo gây ra, hay do vô tình hoặc thậm chí do chính nhân tố nhà nước có thẩm quyền thực hiện chống lại Hoa Kỳ, các căn cứ ở hải ngoại hoặc các đồng minh của nước này (đây chính là mối đe dọa trực tiếp có nguy cơ xảy ra nhất đối với lợi ích của Mỹ trong trường hợp bùng nổ chiến tranh với một trong những cường quốc hạt nhân) bằng khả năng phòng thủ tên lửa hiệu quả. Như đã đề cập, Mỹ đã nghiên cứu khả năng phòng thủ như vậy kể từ năm 1983, bằng chứng là Mỹ đã rút khỏi Hiệp ước Chống tên lửa đạn đạo (ABM) năm 2002, và vào năm 2004 nước này công bố đã bước đầu triển khai một chương trình phòng thủ tên lửa quốc
gia. Dù ngân sách cho phòng thủ tên lửa bị đình trệ và khó khăn kỹ thuật còn rất lớn, nhưng những lợi ích từ ngay các nghiên cứu và phát triển như vậy vẫn hết sức rõ ràng: nó đẩy đối thủ vào một cuộc chạy đua vũ khí tốn kém, trong đó Hoa Kỳ hiển nhiên nắm lợi thế , làm gia tăng những trở ngại về kỹ thuật và tài chính nếu họ muốn đe dọa Hoa Kỳ bằng tên lửa đạn đạo, và khiến việc xây dựng và duy trì vũ khí như vậy của đối thủ trở nên vô ích ngay từ bước đầu.
Cuối cùng, Hoa Kỳ phải bảo vệ chống lại hoạt động gián điệp và các cuộc tấn công qua mạng. Những cuộc tấn công theo cách này đã từng được các nhóm tội phạm có trụ sở tại Nga và Trung Quốc tiến hành trong những năm gần đây, hay như vụ do WikiLeaks gây ra kể từ khi thành lập vào năm 2006 và do nhóm hacker Nặc danh (Anonymous) từ năm 2008. Tuy không cuộc tấn công mạng nào gây thiệt hại trên diện rộng về nhân mạng hoặc tài sản – ví dụ như vụ WikiLeaks dù đã làm tổn hại nghiêm trọng khả năng thu thập thông tin tình báo của Mỹ nhưng những tác động chính thực chất chỉ giới hạn ở mức gây ra chút rắc rối cho ngành và các hệ thống máy tính chính phủ – nhưng điều đó không phải lý do để chúng ta bằng lòng buông lỏng. Cái giá cho chiến thắng đầu tiên của một cuộc tấn công mạng trên quy mô lớn có thể sẽ là quá đắt nếu vấn đề này bị coi nhẹ. Mặc dù mảng mật mã cơ bản (giám sát bởi Cơ quan an ninh Trung ương của Cục An ninh Quốc gia
(NSA) từ năm 1972) vẫn luôn đóng góp vào những nỗ lực đảm bảo thông tin của Mỹ trong nhiều thập kỷ, nhưng đến nay các sáng kiến phòng vệ qua mạng tinh vi hơn mới đang chập chững phát triển ở bước đầu. Tổng thống George W. Bush đã thông qua Sáng kiến An ninh Mạng quốc gia toàn diện vào năm 2008, Tổng thống Barack Obama bổ nhiệm một Điều phối viên An ninh mạng trong năm 2009 và cũng trong năm đó quân đội Mỹ thành lập Bộ Chỉ huy Mạng để bảo vệ hệ thống thông tin quân sự Mỹ. [6] Tất cả những nỗ lực này mới được thực thi nên vẫn còn quá sớm để đánh giá hiệu quả mà chúng mang lại.
Duy trì thế cân bằng quyền lực
Chính sách an ninh quốc gia không chỉ dừng ở mục tiêu bảo vệ an ninh quốc gia, bởi nếu vậy trách nhiệm của những nhà hoạch định chính sách có thể chỉ dừng ở mức lo cho bản thân nước Mỹ, bằng cách đơn giản dựng một bức tường lớn nhất có thể để ngăn những hiểm họa trực tiếp với thân thể họ trong khi bỏ qua những mối đe dọa sắp ập đến ở hải ngoại. Ví dụ, thay vì thận trọng xây dựng một hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia nhằm chống lại cuộc tấn công từ một trong những chế độ chuyên quyền có vũ khí hạt nhân, sẽ tốt hơn nếu họ chọn cách kiểm soát những mối quan hệ với các cường quốc đó để ngăn chặn một cuộc chiến tranh ngay từ đầu. Đó là lý do tại sao Hoa Kỳ nên có một trụ cột thứ hai trong chiến lược toàn cục của mình, đó là theo đuổi một hệ thống các chiến lược cân bằng và ràng buộc mang tính chất đan lồng, tự củng cố và phù hợp với các cường quốc, đặc biệt là với những chế độ chuyên quyền hạt nhân.
Cạnh tranh giữa các siêu cường là một đặc điểm đã tồn tại từ lâu trong nền chính trị thế giới và chính sách đối ngoại Mỹ. Trong những thập kỷ tồn tại đầu tiên của Hoa Kỳ, đất nước này theo đuổi một chính sách cân bằng giữa Anh và Pháp, hai siêu cường thời bấy giờ. Washington đã liên minh với Pháp chống lại Anh để giành độc lập, nhưng cũng vi phạm thỏa thuận trước đó với Pháp khi đàm phán riêng rẽ với người Anh sau khi chiến tranh kết thúc. Tổng thống Washington và Adams sau đó đã thoát ly đất nước khỏi Pháp bằng cách đưa ra một Tuyên bố Trung lập (Proclamation of Neutrality) năm 1793, ký kết Hiệp ước Jay với người Anh (1794), và tiến hành một cuộc “chiến tranh hải quân không chính thức” quy mô nhỏ với Pháp (1798-1800) để khẳng định quyền trung lập của mình. Tổng thống Jeferson, Madison và Monroe sau đó lại nghiêng về phía Pháp: họ cấm vận thương mại Anh (1807) trong một tranh chấp về quyền trung lập, hành động này đã góp phần làm bùng nổ một cuộc chiến tranh ngắn ngày với Vương quốc Anh (1812- 1815) do người Anh bắt giữ thủy thủ Mỹ. Trong ba thập kỷ, mục tiêu nhất quán của Mỹ là ngăn chặn không bên nào trong hai cường quốc châu Âu này giành được sức ảnh hưởng quá mức đối với quyền lợi và nền độc lập Mỹ. Tương tự, trong thế kỷ hai mươi, Mỹ đã chiến đấu hai cuộc chiến tranh nóng và một cuộc chiến tranh lạnh để ngăn cản bất kỳ cường quốc hoặc liên minh nào –như nước Đức thời Wilhelm, Áo-Hung, Ottoman, Đức Quốc xã, Ý, Nhật Bản hoặc Liên Xô – áp đặt quyền bá chủ lên Châu Âu hoặc Châu Á. Mục đích ở đây là để ngăn chặn nguồn lực vật chất của một nửa thế giới rơi vào tay của một đối thủ nào đó. Trong thời gian từ Thế chiến thứ hai đến Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã đảo ngược vị trí của những kẻ thù chính và các đồng minh: đầu tiên liên minh với Liên Xô chống lại Đức và Nhật Bản, sau đó liên minh với Đức và Nhật Bản (và những quốc gia khác) chống lại Liên Xô, trở thành một ví dụ điển hình của chiến lược cân bằng quyền lực.
Bản thân Chiến tranh Lạnh cũng là một cuộc cạnh tranh siêu cường dạng truyền thống giữa hai cường quốc hàng đầu giai đoạn giữa thế kỷ 20. Theo cách hiểu này, cuộc chiến không khác nhiều so với các cuộc xung đột của thế giới đa cực trước đó, ngoại trừ về số lượng quốc gia tham gia. Thật vậy, cuộc Chiến tranh Lạnh mà nhiều người tin rằng chỉ xảy ra giữa hai cực thực chất lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ những tính toán riêng rẽ của các cường quốc khác. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ban đầu đứng về phía Liên Xô vì hai bên cùng chung ý thức hệ cộng sản, đồng thời cũng đã chiến đấu chống lại Hoa Kỳ trong Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) và đạt được vũ khí hạt nhân vào năm 1964. Tuy nhiên, do không muốn trở thành một vệ tinh của Liên Xô và do cuộc xung đột biên giới gây nghi kỵ đã nổ ra sau đó vào năm 1969, Trung Quốc chuyển hướng từ Liên Xô nghiêng sang phía Hoa Kỳ sau chuyến thăm của Tổng thống Richard Nixon năm 1972. Động thái này không chỉ làm cán cân quyền lực toàn cầu đổi chiều từ phía Liên Xô nghiêng sang phía Hoa Kỳ, mà còn từ Châu Âu sang Châu Á do Trung Quốc đã làm gia tăng giá trị của khu vực thông qua hành động “ly khai” của mình. Tương tự, Ấn Độ và Phong trào Không liên kết (NAM) đã đại diện cho một phần đáng kể các quốc gia trong hệ thống quốc tế luôn hy vọng có thể để kháng cự những sức ép buộc khiến họ phải đứng về một trong hai phía, rồi tiếp đó bắt các siêu cường phải tranh giành lòng trung thành của các nước đang phát triển thông qua viện trợ, đầu tư và đôi khi cưỡng chế. Do đó, phong trào này là một hình thức cân bằng của Nam Bán cầu chống lại Bắc Bán cầu.
Một chính sách ngoại giao dựa trên cân bằng quyền lực có thể sẽ bị một số học giả và nhà hoạch định chính sách đánh giá là xa rời thực tế hoặc lỗi thời. Lập luận phổ biến hiện nay trong các nghiên cứu về an ninh là loại hình cuộc chiến tranh quy ước đã không còn tồn tại, xung đột giữa các cường quốc đã kết thúc, cạnh tranh ngày nay xảy ra thông qua thương mại thay vì chiến tranh, “các cuộc chiến tranh giữa người dân với nhau” tạo thành gương mặt mới của chiến tranh, và các nhân tố phi nhà nước mới là người định hình chính trị thế giới.[7] Những trào lưu quan niệm phổ biến này thường có xu hướng lấy một hiện tượng nhỏ, chẳng hạn như vị thế ngày càng gia tăng của các nhân tố phi nhà nước, và sau đó đưa ra đánh giá khái quát hóa quá mức hiện tường đó khi coi nó là đặc điểm nổi trội của hệ thống. Xu hướng này đã khiến các nhà bình luận đánh giá quá thấp sự tồn tại dai dẳng của những mối đe dọa cũ và truyền thống trong đó chủ thể nhà nước đóng vai trò trung tâm, đặc biệt là cạnh tranh giữa các cường quốc và chiến tranh quy ước.
Lấy trường hợp của Nga, quốc gia ngày nay vẫn là một trong những chế độ chuyên chế hàng đầu thế giới. Dù Nga không còn là nước giương cao ngọn cờ dẫn đầu một cuộc cách mạng toàn cầu nhằm lật đổ tất cả các nước tư bản chủ nghĩa, người ta vẫn không cho rằng nước Nga hiện đại có thiện ý hay tỏ thái độ hòa bình với Hoa Kỳ và các đồng minh. Trên thực tế, hệ tư tưởng hiện đại của Nga vẫn còn rất đáng lo ngại, nó giống như chế độ độc tài kết hợp với dân tộc chủ nghĩa, và hòa trộn với một dạng chủ nghĩa đế quốc mềm. Quan chức Nga vẫn luôn bộc lộ khá rõ ràng ý định cân bằng đối trọng với Hoa Kỳ, phản đối thế đơn cực và cố gắng phục hồi vị thế bá chủ của Nga đối với các quốc gia kề cận. Xung đột lợi ích giữa Mỹ và Nga thể hiện rõ nhất ở Đông Âu, đặc biệt là vùng Baltic và Ukraina. Nga có lẽ đã đứng đằng sau một cuộc tấn công mạng vào Estonia – một đồng minh NATO – trong năm 2007, và vào năm 2008, nước này cho xâm chiếm Grudia, quốc gia khi đó có tiềm năng trở thành thành viên tương lai của NATO. Khi lòng yêu mến dành cho Tổng thống Vladimir Putin ở quê nhà bị xói mòn, không khó tưởng tượng ông sẽ sẵn sàng liều lĩnh đẩy một cuộc khủng hoảng bên ngoài lên cao trào một để có thể dành được những lời tán dương và ủng hộ mang nặng màu sắc dân tộc chủ nghĩa trong nước.
Mức độ đe dọa của Trung Quốc ngày nay rõ ràng lớn hơn nhiều so với thời Chiến tranh Lạnh. Quan hệ Trung-Mỹ đã trải qua hai giai đoạn trong Chiến tranh Lạnh. Từ năm 1950 đến năm 1972, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã tuyên bố là kẻ thù của nhau và từng lao vào một cuộc Chiến tranh Triều Tiên bế tắc và đẫm máu, nhưng tình trạng thù địch công khai này ít nguy hiểm hơn vì Trung Quốc có điểm yếu là nền kinh tế kiệt quệ. Từ năm 1972 đến năm 1989, thái độ thù địch lẫn nhau của hai nước giảm đi đáng kể, nhưng đồng thời sức mạnh của Trung Quốc bắt đầu phát triển một cách nhanh chóng khi quốc gia này tự do hóa kinh tế và hiện đại hóa lực lượng vũ trang. Từ trước đến nay, Hoa Kỳ đã chưa từng phải đối mặt với một Trung Quốc vừa hùng mạnh và vừa thù địch, nhưng quá trình hiện đại hóa kinh tế và quân sự rõ ràng đã đưa Trung Quốc trở thành một trong những cường quốc lớn trên thế giới hiện nay. Trong số những phẩm chất cho vị thế này có thể kể đến vũ khí hạt nhân, năng lực tên lửa đạn đạo và khát vọng đạt được sức mạnh hải quân trên đại dương. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc, như các cộng sự người Nga, vẫn không ngần ngại tuyên bố công khai thái độ phản đối thế đơn cực của Mỹ, chủ ý sửa lại trật tự thế giới, và mong muốn nắm giữ một phần uy thế và ảnh hưởng lớn hơn trên toàn cầu. Trên thực tế thế giới hiện nay có một số điểm nóng mà từ đó ý đồ xét lại của Trung Quốc có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng quân sự cho Hoa Kỳ hay các đồng minh, bao gồm Đài Loan,[8] bán đảo Triều Tiên và Biển Đông. Hơn nữa, quan hệ Mỹ với Trung Quốc thường dễ leo thang căng thẳng, ví dụ như trong giai đoạn vụ thảm sát Thiên An Môn diễn ra vào năm 1989, cuộc khủng hoảng Đài Loan năm 1996, sự cố EP3 vào năm 2001 (khi một chiếc máy bay thu thập thông tin tình báo Mỹ va chạm với một máy bay chiến đấu Trung Quốc), và các thử nghiệm tên lửa chống vệ tinh trong năm 2007, chưa nói đến các vụ mua bán vũ khí hàng năm của Mỹ cho Đài Loan. Nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng quân sự với Trung Quốc ngày nay đang ở mức cao nhất (và hậu quả mà nó mang lại chắc chắn sẽ nghiêm trọng hơn) kể từ Chiến tranh Triều Tiên.
Ngoài Nga và Trung Quốc, hiện nay còn đến ba chế độ độc tài hạt nhân có thái độ thù địch với Hoa Kỳ. Bắc Triều Tiên và Iran là kẻ thù công khai của Hoa Kỳ, trong khi Pakistan cũng đang chông chênh trên bờ vực. Pakistan và Bắc Triều Tiên đã thử nghiệm vũ khí hạt nhân lần lượt vào năm 1998 và 2006, Iran cũng gần như chắc chắn sẽ phát triển năng lực vũ khí hạt nhân. Cả ba quốc gia này đều đã đầu tư vào tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm xa có thể nhắm trúng đồng minh của Mỹ, và, bất chấp thất bại của vụ thử tên lửa mới đây của Bắc Triều Tiên, Mỹ phải cân nhắc nghiêm túc nguy cơ bất kỳ nước nào trong ba nước này sẽ sớm có thể sản xuất tên lửa có khả năng vươn tới lãnh thổ Mỹ. Ngoài ra, do còn thua kém về công nghệ cũng như yếu kém tương đối trong đối đầu quân sự truyền thống, Iran, Bắc Triều Tiên và Pakistan đã tiến hành nâng cấp sân chơi bằng cách đầu tư vào năng lực quân sự phi truyền thống và năng lực khủng bố.
Vì vậy, chính sách cân bằng quyền lực là một công cụ cần thiết và quan trọng trong các chính sách nền tảng của Mỹ. Nỗ lực cân bằng quyền lực của Mỹ nên nhắm đến mục tiêu ngăn chặn bất kỳ quốc gia thù địch nào sở hữu đủ sức mạnh để đe dọa sự tồn tại của Hoa Kỳ, của đồng minh hoặc cả trật tự thế giới tự do. Xét trên thực tế, điều đó có nghĩa là: trước tiên, ngăn chặn một liên minh kiểu Phe Trục giữa ít nhất hai quốc gia bất kỳ trong nhóm thù địch, chẳng hạn như một liên minh Nga-Trung Quốc hoặc Trung Quốc – Pakistan. Một mối liên kết như vậy, dù khó xảy ra vào thời điểm này, sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến khả năng tự do hành xử của Hoa Kỳ và đe dọa trật tự thế giới tự do. Ý nghĩa thứ hai, và cũng thiết thực hơn cho quá trình hoạch định chính sách ngắn hạn, là ngăn ngừa bất kỳ chế độ chuyên quyền hạt nhân nào mở rộng ảnh hưởng một cách bất hợp pháp bằng cách xâm chiếm, lật đổ hoặc đe dọa. Các chế độ chuyên quyền hạt nhân đều có quá khứ theo đuổi chính sách này từ lâu, như việc Nga xâm lược Grudia năm 2008 và lợi dụng các nguồn cung cấp khí đốt để đe nẹt Ukraina; hay Trung Quốc và Bắc Triều Tiên thường xuyên đe dọa Đài Loan và Hàn Quốc, và Iran cùng với Pakistan liên tục hỗ trợ cho các chiến binh và ủng hộ những cuộc chiến tranh qua tay người khác (proxies) trên khắp Trung Đông và Nam Á. Nếu để cho những chính sách này thành công sẽ không khác nào khuyến khích thái độ gây hấn hung hăng, từ đó “xây dựng” một hệ thống quốc tế trong đó những kẻ chuyên đi gây hấn dần dần chiếm được quyền lực và cuối cùng đàn áp những quốc gia hòa hiếu.[9] Giải pháp rõ ràng ở đây là phải xây dựng một dạng hệ thống khác, trong đó thái độ hung hãn sẽ phải đối đầu với sự phản kháng tập thể. Vì vậy, Mỹ và đồng minh phải cân bằng chống lại các nỗ lực mở rộng ảnh hưởng của các chế độ chuyên chế hạt nhân.
Phương tiện hiệu quả nhất giúp Hoa Kỳ có thể cân bằng giữa các cường quốc khác là duy trì liên minh với những nền dân chủ anh em trên toàn thế giới. Mỹ cân bằng với Nga thông qua NATO, và cân bằng với Trung Quốc và Bắc Triều Tiên thông qua một mạng lưới các liên minh với Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc, New Zealand, Thái Lan, Philippines và Đài Loan. Những đồng minh này giúp neo giữ ổn định khu vực và cảnh báo Nga, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên họ sẽ phải trả giá rất đắt nếu có bất kỳ hành động gây hấn hoặc bành trướng nào. Cả hai chuỗi liên minh đều gắn kết sâu sắc và lâu dài với Hoa Kỳ, và chính phủ đã luôn sáng suốt khi coi việc duy trì và làm sâu sắc những mối liên minh này là một phần trong những công tác cơ bản để thiết lập an ninh quốc gia Mỹ (và điều này nên được tiếp tục tiến hành trong tương lai). Tuy nhiên, cả hai chuỗi đều phải đối diện với những thách thức.
NATO bị pha loãng khi chịu nhồi nhét nhiều sứ mệnh hơn bao giờ hết, bao gồm cả phòng thủ mạng, chống cướp biển và gìn giữ hòa bình, và bị suy yếu do việc chia sẻ gánh nặng không đồng đều trong những chiến dịch ngoài lãnh thổ của tổ chức như tại Afghanistan và Libya. Tổ chức có nguy cơ bị biến thành một “diễn đàn phát biểu đa dụng” (all-purpose talk-shop) với chức năng chủ yếu là phủ ánh hào quang đẹp đẽ của chủ nghĩa đa phương lên những sáng kiến của Hoa Kỳ. Điều cần làm hiện nay là đặt ưu tiên cho việc chuyển hướng mục tiêu của Đồng minh trở về với nhiệm vụ chính của nó: phòng thủ Châu Âu. Trong khi đó, một khu vực Thái Bình Dương chắp vá bởi những điều ước quốc tế song phương và tam phương đan chéo nhau đang phải chịu tình trạng thiếu phối hợp và bị chia rẽ, và điều này có nguy cơ trở thành một điểm yếu cho vị thế của Mỹ trên sân chơi tại đây. Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ có lẽ đang nghiên cứu khả năng chính thức hóa một Tổ chức Hiệp ước chung Thái Bình Dương (PTO) đi theo mô hình từ Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương. Để hiện thực hóa ý tưởng này cần phải khắc phục được những thù hằn trong lịch sử thường thấy giữa những nước như Hàn Quốc và Nhật Bản, và điều này, như đã có tiền lệ trước đó là quá trình xích lại gần nhau giữa Pháp và Đức thời hậu chiến chứng minh, có thể sẽ khó khăn nhưng không phải không thể.
Vị thế của Mỹ ở Trung Đông và Nam Á rõ ràng yếu hơn so với ở châu Âu hay Đông Á. Washington có tương đối ít đồng minh đáng tin cậy tại khu vực này để có thể sát cánh chống lại Iran, và có khả năng là cả Pakistan. Israel là một Đồng minh ngoài NATO chủ chốt đầy quyền lực và dân chủ ở Trung Đông, nhưng liên minh Mỹ-Israel lại có hạn chế về khả năng hành động tự do và sức ảnh hưởng trong khu vực do các mối quan hệ nghèo nàn của Israel với thế giới Ả Rập; và mặc dù có ưu thế công nghệ nhưng Israel đơn giản là quá bé nhỏ để tham gia đóng góp thực sự và đáng kể cho một cuộc chiến tranh lớn với Iran. Ả Rập Xê-út có lẽ cũng có thiện chí và có cả khả năng đứng ra tập hợp một liên minh các quốc gia Ả rập để hợp tác cùng Mỹ chống lại Iran, nhưng dường như vương quốc này lại là một đối tác không đáng tin cậy: việc Ả Rập Xê-út từ chối tiến hành tự do hóa trong nước đang đẩy họ đến nguy cơ bất ổn chính trị, đồng thời thực tế nước này không có khả năng đa dạng hóa nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt lại dẫn đến nguy cơ trì trệ kinh tế. Có không ít quốc gia khác trong khu vực – như Jordan, Marốc, Ai Cập, Kuwait và Bahrain – được xác định là đồng minh của Mỹ, nhưng họ lại không có khả năng hoặc không sẵn sàng theo đuổi lâu dài một chiến lược khu vực. Quả thực, khả năng đóng góp của bất cứ quốc gia Ả rập nào trong vai trò là một đồng minh của Mỹ ngày càng không chắc chắn khi tầm quan trọng của khu vực Trung Đông đang suy giảm và các quốc gia khu vực nói chung vẫn từ chối đứng về phía Washington một cách công khai trong mọi vấn đề nghị sự quan trọng do lo sợ phản ứng từ dân chúng trong nước.
Việc Mùa xuân Ả Rập có chứng tỏ là buổi bình minh đáng mong đợi cho chủ nghĩa tự do ở Trung Đông hay không vẫn là điều chưa chắc chắn, nhưng nó có thể là một lợi thế cho Hoa Kỳ trong việc tăng cường khả năng bảo vệ lợi ích trong khu vực. Tổng thống Obama đã đúng khi ông tuyên bố (hơi muộn màng) với thế giới Ả Rập tháng 5 năm 2011 rằng “Mỹ ủng hộ toàn bộ quyền cơ bản của con người, bao gồm tự do ngôn luận, tự do tụ tập hòa bình, tự do tôn giáo, bình đẳng cho nam giới và nữ giới theo pháp quyền, và quyền lựa chọn các nhà lãnh đạo của riêng mình – dù bạn sống ở Baghdad hay Damascus, Sanaa hay Tehran”. Đó là lý do tại sao “điều này sẽ là chính sách của Hoa Kỳ để thúc đẩy cải cách trên toàn khu vực, và để ủng hộ quá trình chuyển đổi dân chủ”, ông nói.[10] Thật không may, vẫn chưa rõ Hoa Kỳ có trong tay những công cụ gì để tác động đến tiến trình Mùa xuân Ả Rập ngoại trừ những lời lẽ ủng hộ khoa trương, các chương trình đào tạo xã hội dân sự và giám sát các cuộc bầu cử. Sau khi sử dụng hết vốn liếng chính trị của mình vào cuộc chiến ở Libya, Hoa Kỳ và các đồng minh phương Tây dường như không thể tập hợp một liên minh để can thiệp vào cuộc chiến có tầm quan trọng chiến lược hơn nhiều ở Syria. Ít nhất thì hiện nay, sự kiện mang tính quyết định cho cả một giai đoạn lịch sử ở Trung Đông này đang gần như nằm ngoài tầm ảnh hưởng của Hoa Kỳ.
Đối tác (ngoài mặt) của Washington ở Nam Á là Pakistan, nhưng Islamabad rõ ràng vẫn luôn tỏ ra do dự khi ủng hộ các lợi ích của Mỹ trong khu vực và, trên thực tế, họ thường hành động chống lại những lợi ích này. Trong nội các Pakistan có những nhân tố khuyến khích phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt, trong khi những nhóm khác tiếp tục hỗ trợ các nhóm chiến binh và khủng bố và có những nhóm tiếp tục đóng một vai trò tiêu cực trong vấn đề Afghanistan. Thêm vào đó, chính phủ dân sự lên nắm quyền vào năm 2008 cũng rõ ràng không nắm toàn quyền kiểm soát chính sách đối ngoại và quốc phòng của Pakistan. Năm 2011 quan hệ Mỹ- Pakistan xấu đi đáng kể sau khi một nhân viên lãnh sự Mỹ bắn chết hai người Pakistan vào tháng Giêng, sau đó là cuộc đột kích đơn phương của Mỹ vào khu nhà Osama bin Laden ẩn nấp tại Abbottabad tháng Năm, và cái chết của 24 binh sĩ Pakistan trong một cuộc không kích của NATO vào một tiền đồn biên giới vào tháng Mười Một.[11]
Chiến lược của Mỹ dựa vào các thành phần được cho là trung hòa hoặc thân Mỹ trong nội các Pakistan đang ngày càng có vấn đề. Để tránh nguy cơ chỗ dựa của Hoa Kỳ bên trong chính phủ Pakistan bị sụp đổ và kéo theo vết trượt dài sau đó là Pakistan tỏ rõ thái độ thù địch công khai, Washington nên tìm cách đa dạng hóa vị thế của mình ở Nam Á bằng cách vun đắp và tăng cường những mối quan hệ với các quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ, mối quan hệ gần gũi của Washington với Kabul – mới được chính thức hóa bởi Hiệp định đối tác chiến lược Mỹ-Afghanistan và việc Afghanistan trở thành một Đồng minh ngoài NATO chủ chốt – hay mối quan hệ đang phát triển của Mỹ với New Delhi cho thấy Hoa Kỳ có những lựa chọn thay thế để đặt những căn cứ quan trọng và chia sẻ thông tin tình báo. Afghanistan chắc chắn sẽ là một địa điểm thuận lợi không kém để đặt các thiết bị cao cấp cho trinh sát và giám sát các mạng lưới phiến quân ở Nam Á, và thậm chí còn thuận tiện hơn nếu đặt các thiết bị nhắm vào Nga và Iran.
Củng cố quan hệ với Ấn Độ, nền dân chủ lớn nhất thế giới và một siêu cường kinh tế đang lên, mang lại nhiều lợi ích đến mức khó có thể bỏ qua cho Hoa Kỳ ở cả hai khu vựcĐông và Nam Á. Như tác giá đã nêu trong một bài viết trước đây:
Với một thế hệ trẻ đông đảo, tài năng, có thể nói tiếng Anh và được giáo dục tốt, [Ấn Độ là] một đối tác thương mại giá trị đầy tiềm năng của Hoa Kỳ. So với Trung Quốc, sức tăng trưởng của Ấn Độ có khả năng bền vững hơn. Dân số nước này đang và sẽ tiếp tục trẻ hóa, nhờ không áp dụng chính sách một con. Người Ấn Độ được tự do bày tỏ những bất bình của họ một cách hợp pháp bằng lời nói và qua sách báo hoặc thông qua những lá phiếu bầu cử, và có thể tổ chức biểu tình và tuần hành mà không sợ bị chính phủ đàn áp bạo lực. Thành quả tăng trưởng của Ấn Độ phần lớn xuất phát từ cách mạng trong các ngành giá trị cao và công nghệ thông tin hơn là từ đầu tư cơ sở hạ tầng phụ thuộc chủ yếu vào định hướng nhà nước như của Trung Quốc.[12]
Ngoài ra, Ấn Độ cùng chia sẻ với Washington mối quan ngại về Trung Quốc và khủng bố thánh chiến.
Dân chủ và các siêu cường
Một nhà phê bình có thể đặt câu hỏi tại sao Mỹ chỉ nên cân bằng với các cường quốc chuyên chế như Nga và Trung Quốc, mà không cần làm vậy với những nền dân chủ mới nổi, bao gồm Ấn Độ và Brazil. Xét cho cùng, Hoa Kỳ không xây dựng mối liên minh chắc chắn với hai nước này, và thậm chí nếu không phải là đối thủ ngoại giao cạnh tranh gay gắt thì hai bên cũng có lịch sử quan hệ xa cách, lạnh lẽo, như trong trường hợp của Ấn Độ. Về mặt lý thuyết mà nói, trong quan điểm hiện thực truyền thống, chính trị nội địa và ý thức hệ không ảnh hưởng đến hành vi của nhà nước, và các liên minh được hình thành trên cơ sở lợi ích chứ không phải niềm tin. Nếu đúng như vậy, một Ấn Độ bước lên tầm cường quốc có thể được xem như một mối đe dọa tiềm tàng tương đương với một Trung Quốc trỗi dậy; và một chiến lược toàn cục dựa trên nền tảng hợp tác với các nền dân chủ để chống lại chế độ chuyên quyền cũng có thể bị đánh giá là ngây thơ và cứng nhắc đến mức nguy hiểm.
Tuy nhiên, trường hợp hiện thực truyền thống nêu trên có phần phóng đại, và thậm chí chúng ta cũng không thể khẳng định bản thân các nhà hiện thực cũng đặt giả thiết như vậy. Stephen Walt, một học giả quan hệ quốc tế nổi bật và một nhà hiện thực tự xưng, đã đúng khi nhận thấycách đây hàng thập kỷ rằng các quốc gia không cân bằng để chống lại một cường quốc đơn thuần, mà chống lại cường quốc mà họ nhận thức là nguy cơ đối với họ. Ngược lại, nguy cơ một phần được cấu thành từ những ý định mà một quốc gia nhận thức được: những quốc gia mà Washington tin rằng đang có ý định gây hại cho Hoa Kỳ là một mối đe dọa; ngược lại những nước không cóý định thù địch không phải là một mối đe dọa.[13] Đây là một trường hợp điển hình mà các nghiên cứu xác nhận một nhận thức logic thông thường. Vương quốc Anh hiện nay là một trong những quốc gia hùng mạnh nhất thế giới hiện nay, sở hữu một trong những nền kinh tế lớn nhất và cơ sở công nghiệp công nghệ tinh vi nhất trên thế giới, có hải quân trên biển, vũ khí hạt nhân và một lực lượng quân đội viễn chinh. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách Mỹ đã không nhận thấy cần phải cân bằng chống lại Vương quốc Anh kể từ khi Chiến tranh Napoleon kết thúc, và vẫn tỉnh táo nhận thức rằng Vương quốc Anh không có ý định thù địch với Mỹ.
Các nhà hiện thực đã bỏ qua khả năng các nhà hoạch định chính sách nhận thức được rằng: thống nhất về mặt tư tưởng là một tín hiệu cho ý định thân thiện, và từ đó hai bên chia sẻ lợi ích chung. Quan hệ Mỹ-Anh là một ví dụ về lý thuyết hòa bình nhờ dân chủ áp dụng trong thực tế: nền dân chủ không xung đột với nhau một phần vì họ có cách nhìn nhận thế giới và xác định lợi ích của mình tương tự nhau, và cùng áp dụng các nguyên tắc giải quyết tranh chấp hòa bình ở trong nước cho các mối quan hệ quốc tế giữa các quốc gia dân chủ.[14] Vì vậy, từ bản chất quan hệ Mỹ-Anh chúng ta có thể suy rộng ra các cường quốc dân chủ nói chung. Các nhà hoạch định chính sách nhìn nhận quyền lực đe dọa hay không đe dọa phụ thuộc vào việc họ tin rằng quyền lực đó được nắm giữ và sử dụng đúng đắn hay sai trái; hay nói cách khác, là dựa theo hệ tư tưởng chi phối việc thực thi quyền lực ấy. Quyền lực không chính đáng là mối đe dọa, trong khi quyền lực hợp pháp lại “an toàn”. Các nhà hoạch định chính sách định nghĩa về “lợi ích” và tác nhân tạo ra một “mối đe dọa” phần nào đều dựa theo hệ tư tưởng.
Các nhà hoạch định chính sách Mỹ do đó có lý do chính đáng khi tin rằng quyền lực của Ấn Độ được kiểm soát một cách an toàn, hợp pháp, công bằng thông qua bầu cử dân chủ, trong khi quyền lực của Trung Quốc lại nằm trong tay chế độ độc tài chuyên chế và không đáng tin cậy. Đó là lý do tại sao các nhà hoạch định chính sách Mỹ hiểu rõ sức mạnh của Ấn Độ an toàn hơn so với Trung Quốc, và tại sao họ tìm cách hợp tác với Ấn Độ nhưng lại cân bằng chống lại Trung Quốc. Đây cũng không hẳn là một khuynh hướng duy nhất của Mỹ hoặc chế độ dân chủ: nhiều dạng chế độ có xu hướng thúc đẩy hệ thống chính phủ và hệ tư tưởng riêng của họ nhằm gia tăng ảnh hưởng đối với các nước khác. Các cường quốc Công giáo và Tin lành đã áp dụng cách thức này trong các cuộc Chiến tranh Tôn giáo, cũng như Pháp trong các cuộc chiến tranh Napoleon và Liên Xô ở Đông Âu sau Thế chiến thứ hai. Iran cũng đang có nỗ lực tương tự trong khu vực kể từ năm 1979, tức là rất lâu trước khi Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc tiến hành xây dựng nền hoà bình nhờ dân chủ trong thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh để truyền bá chủ nghĩa tự do toàn cầu.[15]
Như tác giả đã khẳng định trong bài viết trước đây, “sự phát triển của làn sóng dân chủ ở nước ngoài làm chuyển cán cân quyền lực nghiêng về phía Hoa Kỳ” [16] do những đồng minh dân chủ mới tiếp tục ra đời. Làn sóng dân chủ hóa đầu tiên (ở Tây Âu trong những năm cuối thế kỷ 19) đã chuyển đổi Vương quốc Anh và Pháp, những đối thủ siêu cường đầu tiên của Hoa Kỳ, thành đồng minh trong Thế chiến thứ nhất. Tương tự như vậy trong thế kỷ 20, quá trình nền dân chủ hóa hai nước Đức và Nhật Bản thời hậu chiến đã biến họ trở thành đồng minh của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh. Sau đó, làn sóng dân chủ lan rộng ở Đông Âu sau Chiến tranh Lạnh đã một lần nữa giúp Mỹ mở rộng danh sách đồng minh của mình, trong đó có nhiều quốc gia đã đóng góp cho liên minh đa quốc gia chống lại al-Qaeda hậu 2001.
Không phương hại tới ai
Trừng phạt những thành phần bất hảo
Đầu tư vào quản trị tốt
Đấu tranh vì chủ nghĩa tự do
Chống lại cuộc nổi dậy của chủ nghĩa jihad toàn cầu
Chiến lược quân sự quốc gia của Hoa Kỳ
Xem phần còn lại của nội dung văn bản tại đây: Nam tru cot trong dai chien luoc My.pdf
1 Paul D. Miller, ‘American Grand Strategy and the Democratic Peace’, Survival, vol. 54, no. 2, April–May 2012, pp. 49–76.
[2] Về khái niệm năm trụ cột chiến lược tương tự, xem Pete Feaver, ‘American Grand Strategy at the Crossroads’, in Richard Fontai và Kristin M. Lord (eds), America’s Path: Grand Strategy for the Next Administration (Washington DC: Center for a New American Security, May 2012), pp. 57–70.
[3] David Kilcullen, ‘Countering Global Insurgency’, trongThomas G. Mahnken and Joseph A. Maiolo (eds), Strategic Studies: A Reader (New York: Routledge, 2008), pp. 326-41.
[4]Về lập luận sâu hơn, xem Paul D. Miller, ‘Be Afraid’, Foreign Afairs, vol. 91, no. 4, July–August 2012, pp. 146–51.
[5] Về NORAD’, http://www.norad.mil/about/index.html.
[6] Các trích đoạn không bí mật từ Sáng kiến An ninh toàn diện mạng quốc gia, xem tại http://www.whitehouse.gov/sites/default/fles/cybersecurity.pdf.
[7]Xem, ví dụ, Rupert Smith, The Utility of Force (New York: Knopf, 2007); Martin van Kreveld, Sự chuyển đổi của Chiến tranh (New York: Free Press, 1991); Mary Kaldor, Tân Cựu Chiến tranh, 2nd ed. (Stanford, CA: Stanford University Press, 2006).
[8] Theo Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, ‘Bắc Kinh đang phát triển năng lực nhằm ngăn chặn, trì hoãn, hoặc từ chối ủng hộ của Mỹ cho đảo [chỉ Đài Loan] trong trường hợp có xung đột. Cán cân lực lượng quân sự xuyên eo biển và khả năng tiếp tục chuyển dịch có lợi cho đại lục.’ Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, ‘Annual Report to Congress: Military and Security Developments Involving the People’s Republic of China, 2011’, p. I.
[9]Tôi phác thảo ở đây trên ý tưởng rằng các diễn viên trong hệ thống quốc tế xây dựng hệ thống chính nó thông qua sự lựa chọn và hành vi của họ, và thông qua phản ứng của họ với các diễn viên khác lựa chọn và hành vi. Xem, ví dụ, John Ruggie, Constructing the World Polity (New York: Routledge, 1998).
[10] Barack Obama, ‘Remarks by the President on the Middle East and North Africa’, The White House, Washington DC, 19 May 2011, http://www.whitehouse.gov/the-press-office/2011/05/19/remarks-president-middle-east-and-north-africa.
[11] Xem Stephen D. Krasner, ‘Talking Tough to Pakistan’, Foreign Afairs, vol 91, no. 1, January–February 2012, pp. 87–96.
[12] Miller, ‘American Grand Strategy and the Democratic Peace’, p. 69.
[13] Stephen Walt, The Origins of Alliances (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1987). Điều đó không có nghĩa là bất kỳ khối tư tưởng được xác định sẽ có được sự hòa hợp hoàn hảo giữa tất cả các thành viên của mình, như thể có một nền hòa bình Hồi giáo hay một nền hòa bình cộng sản tương tự như hòa bình nhờ dân chủ (mặc dù Walt tìm thấy ngưỡng hỗ trợ yếu cho tư tưởng đoàn kết giữa các quốc gia Hồi giáo trong nghiên cứu ban đầu của mình). Rốt cuộc, hòa bình nhờ dân chủ có sức thuyết phục không đơn giản chỉ vì cảm nhận gần gũi giữa các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia dân chủ, mà vì tính năng độc đáo của thể chế dân chủ, chẳng hạn như phân chia quyền lực và tự do báo chí, mà hạn chế quyền hạn tiến hành chiến tranh. Nhưng tinh thần đoàn kết tư tưởng có nghĩa là xung đột giữa các quốc gia chung ý thức hệ trở nên khó biện minh hơn, trong khi liên minh giữa họ với nhau lại dễ dàng hơn và lâu dài hơn. Ví dụ, chúng ta có thể chứng kiến sự đoàn kết thường xuyên giữa các quốc gia có người Hồi giáo chiếm đa số trong các vấn đề được cho là đe dọa bản sắc Hồi giáo, chẳng hạn như vấn đề Palestine hoặc Kashmir.
[14] Xem, ví dụ, John M. Owen, Chương IV, Liberal Peace and Liberal War (Ithaca, NY: Cornell University Press, 1997); và Keith A. Shult, Democracy and Coercive Diplomacy (Cambridge: Cambridge University Press, 2001).
[15] Xem John Owen, ‘The Foreign Imposition of Domestic Institutions’, International Organization, vol. 56, no. 2, Spring 2002, pp. 375–409; và The Clash of Ideas in World Politics: Transnational Networks, States, and Regime Change, 1510–2010 (Princeton, NJ: Princeton University Press, 2010).
[16] Miller, ‘American Grand Strategy and the Democratic Peace’, p. 60.