Năm loại vũ khí Trung Quốc sẽ phải e sợ nếu gây chiến với Việt Nam

P-800 missile

Tác giả: Robert Farly | Biên dịch: Trần Quang

Năm 1979, hai bên đã nổ ra chiến tranh và Trung Quốc đã không thực sự giành chiến thắng. Ngày nay, sức mạnh quân sự của Việt Nam sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho Trung Quốc nếu một cuộc chiến nổ ra giữa hai bên.

Năm 1975, quân đội Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã đánh bại Việt Nam Cộng hòa, giải phóng Sài Gòn và chấm dứt gần 30 năm chiến tranh. Sau 3 năm kể từ khi nước Mỹ không còn sẵn sàng trả giả cho việc tiếp tục can dự và rút khỏi cuộc chiến, CHXHCN Việt Nam đã giành chiến thắng. Năm 1979, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiến hành xâm lược Việt Nam với nỗ lực nhằm trừng phạt Hà Nội vì đã có những hành động tại Campuchia cũng như liên kết đồng minh với Liên Xô. Cuộc chiến kéo dài một tháng, kết thúc bằng việc quân đội Trung Quốc rút khỏi Việt Nam sau khi chịu những tổn thất nặng nề và không hề thu được bất kỳ một mục tiêu chiến lược nào.

Nhìn chung, Quân đội Nhân dân Việt Nam từ lâu đã có truyền thống giành chiến thắng trong các cuộc chiến. Ngày nay, quan hệ Trung – Việt lại một lần nữa rơi vào căng thẳng. Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trong vùng yêu sách chủ quyền của Việt Nam làm gia tăng căng thẳng trong vấn đề kiểm soát các hòn đảo tại Biển Đông. Rất nhiều nhà chính trị Việt Nam, chẳng hạn như Võ Nguyên Giáp, đã cảnh báo về mối đe dọa xâm lấn lãnh thổ của Trung Quốc.

Nếu chiến tranh nổ ra, những loại vũ khí nào mà Việt Nam có thể sử dụng? Các loại vũ khí của cả Trung Quốc và Việt Nam đều có chung nguồn gốc; hầu hết các loại vũ khí mà Việt Nam sử dụng chống lại Trung Quốc thì Quân đội Giải phòng Nhân dân Trung Quốc (PLA) cũng sở hữu. Tuy nhiên, những hiệu quả trong việc triển khai phòng thủ và tấn công lại rất khác nhau. Dưới đây là 5 hệ thống vũ khí mà Việt Nam có thể sử dụng để đối phó hiệu quả quân đội Trung Quốc.

Máy bay Su-27

Khá lạ là trong cuộc chiến năm 1979, sức mạnh không quân chỉ đóng một vai trò khiêm tốn. Do vấn đề về học thuyết quân sự và công nghệ mà Không quân PLA của Trung Quốc (PLAAF) đã không được sử dụng để tăng cường mở rộng ưu thế trên chiến trường. Không quân Việt Nam (VPAF), một lực lượng rất nhỏ chỉ đóng vai trò phòng thủ đã phát huy hiệu quả trong cuộc chiến chống Mỹ một thập kỷ trước đó, nhưng trong cuộc xung đột này lại không được sử dụng.

Tuy nhiên, cuộc chiến tiếp theo sẽ không như vậy. Cả VPAF và PLAAF đều được nâng cấp bằng những chiếc máy bay hiện đại của Nga. Đáng chú ý là dòng máy bay Su-27 Flanker. Việt Nam sở hữu khoảng 40 loại máy bay Flanker với nhiều chủng loại khác nhau, Việt Nam cũng đã đặt mua thêm 20 chiếc từ Nga. Ngoài nhiệm vụ phòng thủ không đối không, loại máy bay này có thể tấn công các mục tiêu trên lãnh thổ đất liền và trên biển Trung Quốc từ khoảng cách xa bằng tên lửa hành trình độ chính xác cao. Flanker là loại máy bay lớn, tốc độ nhanh, có sức mạnh và chúng sẽ được cả hai bên sử dụng.

Kết hợp với hệ thống tích hợp phòng không của Việt Nam, máy bay Flanker (cũng như một số loại máy bay đời cũ như Mig 21) không chỉ hạn chế khả năng xâm nhập của Trung Quốc vào không phận của Việt Nam, mà nó còn là một đòn giáng trả mạnh mẽ. Chúng ta vẫn chưa nhận biết được khả năng huấn luyện phi công của Việt Nam so với Trung Quốc, mặc dù PLAAF rõ ràng có nguồn lực lớn hơn rất nhiều và được tập trung huấn luyện thực tế trong những năm gần đây. Tuy vậy, VPAF có thể sử dụng loại máy bay Flanker tinh vi để giành ưu thế phòng thủ trước các lực lượng bị kéo căng của Trung Quốc.

Tàu ngầm Kilo

Nhìn chung, các nhà phân tích đều cho rằng, Hải quân Trung Quốc (PLAN) vẫn phải khắc phục những vấn đề cốt lõi nhất trong cuộc chiến chống tàu ngầm. Mặc dù rõ ràng PLAN có ưu thế rất lớn về tàu ngầm trong những ngày đầu của một cuộc xung đột, nhưng hạm đội tàu ngầm của Trung Quốc lại chỉ được trang bị tối ưu cho các cuộc chiến chống tàu trên mặt nước chứ không phải là tàu ngầm của đối phương.

Không phô trương ồn ào nhưng tàu ngầm Kilo hiện đại mà Việt Nam mua của Nga lại đặt ra vấn thách thức rất lớn cho PLAN. Mặc dù Trung Quốc cũng sở hữu tàu ngầm lớp Kilo (cũng như nhiều loại tàu ngầm khác), nhưng loại tàu này lại không hóa giải được đội tàu của Việt Nam trước khi chúng tấn công và gây ra những thiệt hạiTàu ngầm Kilo của Việt Nam mang được cả ngư lôi và tên lửa hành trình chống tàu, loại vũ khí đặt ra mối đe dọa lớn cho đội tàu và các căn cứ xa bờ của Trung Quốc.

Hiện Việt Nam sở hữu hai chiếc tàu ngầm Kilo, và đã đặt mua thêm bốn chiếc. Mặc dù Trung Quốc có thể cố gây áp lực cho phía Nga làm chậm quá trình chuyển giao tàu ngầm và vũ khí trang bị cho Việt Nam, nhưng có vẻ như Moscow lại không làm theo ý muốn của Trung Quốc. Đội tàu ngầm của Việt Nam sẽ ngày càng mạnh hơn trong một vài năm tới, đúng với thời điểm các đội tàu lớn mới hình thành của Trung Quốc trở thành mục tiêu tuyệt vời của tàu ngầm Việt Nam.

Tên lửa hành trình P-800 Onyx

Trong vài thập kỷ qua, Trung Quốc đã phát triển rất mạnh hàng loạt tên lửa hành trình thuộc tổ hợp hệ thống phòng thủ A2/AD (phong tỏa và chống tiếp cận – ND). Với việc hiện Trung Quốc đang quan tâm đến việc mở rộng sức mạnh, quốc gia này sẽ cần phải kiểm soát các hệ thống phòng thủ A2/AD đang phát triển từ các quốc gia láng giềng. Giống như Trung Quốc, từ lâu Việt Nam đã theo đuổi xây dựng nhiều hệ thống tên lửa hành trình khác nhau. Ngày nay, Việt Nam có thể khai hỏa tên lửa hành trình từ máy bay, tàu chiến trên mặt nước, tàu ngầm và các căn cứ ở bờ biển. Khi được kết hợp, các loại tên lửa này có thể tấn công tàu Trung Quốc từ nhiều hướng và bất ngờ đánh sập hệ thống phòng không trên tàu của PLAN.

Các căn cứ bờ biển có thể là nơi đứng vững tốt nhất trong bối cảnh một cuộc tấn công lớn từ phía Trung Quốc. Hiện Việt Nam sở hữu tên lửa hành trình đối hạm P-800 Onyx, và có ý định triển khai phòng thủ ven biển. Với một quả tên lửa tốc độ gấp 2,5 lần tốc độ âm thanh và có tấm bắn 180 dặm, đầu đạn 250 kg thì Onyx có thể sẽ đặt ra mối đe dọa lớn cho đội tàu của Trung Quốc. Được triển khai tại các vị trí chiến lược và được mạng lưới phòng không của VPA bảo vệ, loại tên lửa này (cũng như nhiều loài tên lửa hành trình cũ được triển khai ở bờ biển) có thể sẽ hạn chế rất lớn phạm vi hoạt động của PLAN.

S-300 SAM

PLAAF chưa bao giờ có kinh nghiệm thực sụ đối đầu với một hệ thống phòng không tích hợp và tinh vi. Việc Trung Quốc sử dụng PLAAF tấn công Việt Nam buộc Trung Quốc phải vô hiệu hóa hoặc tránh đối đầu với hệ thống phòng không của Việt Nam. Hoạt động vô hiệu hóa hệ thống phòng không đối phương là một trong những nhiệm vụ đòi hỏi hoạt động phối hợp mang tính cá nhân và tổ chức nhất đối với một lực lượng không quân khi thực hiện. Mỹ đã thành thạo những hoạt động kiểu như vậy thông qua kinh nghiệm xương máu trong các cuộc chiến ở Việt Nam, Kosovo, Iraq và những chương trình huấn luyện trên mô hình thực tế tại sa mạc Nevada. Chúng ta vẫn không biết liệu PLAAF có phát triển kỹ năng cần thiết này không khi đối đầu với mạng lưới hệ thống phòng không của Việt Nam. Nếu Trung Quốc không có kỹ năng này thì tên lửa đất đối không của Việt Nam sẽ gây ra những thiệt hại nặng nề cho máy bay và phi công Trung Quốc.

Hệ thống hiện đại nhất trong mạng lưới phòng không VPAF là tên lửa S-300. Loại tên lửa này có thể dò và tấn công hàng loạt mục tiêu ở khoảng cách lên đến 75 dặm. Ngoài ra, hệ thống phòng thủ điểm còn có thể tự bảo vệ tổ hợp tên lửa S-300 trước một cuộc tấn công. Kết hợp với các loại máy bay của VPAF, tổ hợp tên lửa SAM sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho đối phương khi thực hiện một chiến dịch tấn công  hiệu quả đối với Việt Nam.

Kinh nghiệm và lợi thế địa hình

Vào năm 1979, Trung Quốc thực hiện cuộc chiến nhằm trừng phạt Hà Nội khi tiến hành xâm lược các tỉnh miền bắc Việt Nam bằng một lượng lớn lực lượng bộ binh và xe bọc thép. Quân đội Nhân dân Việt Nam (VPA) đã nhận định rằng, mục tiêu trọng tâm của Trung Quốc là tấn công và tiêu diệt các đơn vị nòng cốt của VPA. Do đó, VPA đã tránh gây tổn thất cho các lực lượng này một cách có hiệu quả nhất cho đến khi lực lượng của PLA rơi vào các khu vực phục kích sẵn của mình. Vào thời điểm đó, cả hai bên đều chịu những thiệt hại nặng nề, tuy nhiên, cuối cùng Trung Quốc đã phải rút quân.

Giờ đây, quy mô quân đội của cả PLA và VPA đều thu hẹp hơn so với năm 1979 nhưng lại chuyên nghiệp hơn, công nghệ hiện đại hơn và được tổ chức tốt hơn. Cụ thể là VPA đã nâng cao trình độ học vấn cho các chỉ huy, cho phép các đơn vị đào tạo và trau dồi kinh nghiệm quốc tế, trang bị trang thiết bị tân tiến cho các đơn vị quân đội của mình.

Điều đó không có nghĩa là sức mạnh của VPA ngang bằng với PLA, nhưng sức mạnh không phải là tất cả. Vào thời điểm năm 1979, VPA có lợi thế về kinh nghiệm và địa hình. Tính kiên cường của bộ binh Việt Nam, thường chiến đấu theo chiến thuật du kích tại các địa hình khắc nghiệt, có thể sẽ giúp Việt Nam ngăn chặn được một cuộc tấn công lớn trên bộ của Trung Quốc từ phía bắc của mình. Khó có thể xảy ra việc Trung Quốc sẽ quyết định trừng phạt Việt Nam thêm một lần nữa bằng một cuộc xâm lược trên bộ, có lẽ Trung Quốc tính trước được những tổn thất nặng nề bởi các cuộc tấn công bằng vũ khí cơ giới, đặc biệt là việc không quân Trung Quốc không đủ khả năng giành ưu thế tuyệt đối trên không trong chiến trường. PLA là một lực lượng quân đội mạnh, nhưng VPA lại luôn luôn chứng minh được khả năng hóa giải, chiến đấu và bảo vệ từng tất đất của mình trong các cuộc chiến.

Kết luận

Việt Nam không hề muốn tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực với Trung Quốc. Viễn cảnh tốt nhất cho xung đột như vậy là quay trở lại cuộc chiến năm 1979, đó là cuộc chiến đã chứng minh cho sự hổ thẹn của Trung Quốc nhưng nó cũng gây ra những thiệt hại lớn cho Việt Nam. Việt Nam không hề muốn đối đầu với Trung Quốc trong một cuộc chiến tranh dựa trên công nghệ và tiêu tốn của cải, một cuộc chiến có thể phá hủy những vũ khí đắt tiền mà VPA sở hữu. Tuy nhiên, Trung Quốc cần phải nhận thức rõ về ưu thế của Việt Nam.  Ở mô hình hiện tại, quân đội Việt Nam được xây dựng nhằm ngăn chặn chủ nghĩa phiêu lưu của Trung Quốc. Chúng ta có thể kỳ vọng rằng, trong những năm tới, Việt Nam sẽ nâng cao năng lực quân đội khi những hành vi khiêu khích ở Biển Đông vẫn sẽ tiếp tục diễn ra.

Robert Farly là Phó Giáo sư tại Trường Đại học Thương mại Quốc tế và Ngoại giao. Các lĩnh vục mà ông nghiên cứu là các học thuyết quân sự, an ninh quốc tế và các vấn đề trên biển.

Nguồn: The National Interest | Nghiên cứu Biển Đông