Tác giả: Vĩnh Nguyên phỏng vấn TS. Hoàng Anh Tuấn
Nước Nga đối mặt với thực tế nghiệt ngã
Thế giới chưa từng chứng kiến biến động như trong năm 2014, cả về cục diện chung, cả về các vấn đề an ninh truyền thống, phi truyền thống, các điểm nóng, các khu vực – Tiến sĩ Hoàng Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao có những phân tích sâu sắc về tình hình thế giới năm qua. Trong phần một của bài phỏng vấn với Lao Động, ông Tuấn nhìn lại cuộc khủng hoảng ở Ukraina và tác động của nó với cục diện chính trị thế giới.
Có nhiều vấn đề ảnh hưởng tới sự chuyển dịch trong quan hệ, nhưng tác động sâu sắc nhất là vấn đề Crưm, và khủng hoảng Đông Ukraina. Giữa các nước lớn vốn xuất hiện sự nghi kỵ, thiếu lòng tin, thiếu sự tin tưởng lẫn nhau, Crưm như chất xúc tác tác động đến cấu trúc quan hệ, từ đó ảnh hưởng dây chuyền đến một loạt quan hệ khác. Crưm dẫn đến căng thẳng giữa Nga – Mỹ, Nga – Châu Âu, đưa đến sự xích lại gần nhau giữa Nga và Trung Quốc.
Crưm gây lo ngại vì qua đó, Mỹ, NATO, EU tiếp tục dồn ép Nga về phía Đông, tiếp tục cuộc Đông tiến của Mỹ và phương Tây trên cả khía cạnh an ninh chính trị và kinh tế, làm không gian an ninh an ninh chính trị của Nga ngày càng thu hẹp. Đến sự kiện này, Nga thấy không gian an ninh, sinh tồn của mình ngày càng bị thu hẹp hơn nên họ phản ứng dữ dội. Trong bối cảnh thiếu lòng tin, Mỹ cho rằng Nga muốn vẽ lại bản đồ Châu Âu. Từ đó đưa đến đối trên tất cả các mặt, trừ quân sự.
Nga bị cô lập về mặt kinh tế, chính trị trong quan hệ với phương Tây, đẩy Nga hướng Đông, tạo ra sự gắn kết Trung – Nga chưa từng có, kể cả so với thời kỳ 2 nước có quan hệ đồng minh giai đoạn 1949-1959. Riêng năm qua có 10 cuộc gặp cấp cao của Tập Cận Bình, Lý Khắc Cường với Putin chính thức và bên lề các hội nghị cấp cao. Không chỉ là các liên kết kinh tế, chính trị, lòng tin giữa Trung Quốc và Nga đã cải thiện hơn nhiều, nghi ngờ về chiến lược của Trung Quốc đối với Nga đã giảm đi.
Một số vấn đề khu vực khác cũng tác động đến quan hệ các nước lớn, như sự trỗi dậy của Nhà nước Hồi giáo đe dọa đến Trung Đông, Châu Âu, đến đồng minh quan trọng nhất của Mỹ là Israel, khiến Mỹ bận tâm nhiều hơn đến Trung Đông.
Ở Đông Á, các điểm nóng nhiều hơn, đó là vấn đề bán đảo Triều Tiên, tranh chấp lãnh thổ Trung – Nhật, Biển Đông, quan hệ giữa Trung Quốc với một số nước ở Biển Đông.
Ngoài ra các vấn đề phi truyền thống như khủng bố, dịch Ebola cũng tác động nhiều đến an ninh toàn cầu. Và đến cuối năm có 2 yếu tố tiếp tục tác động mạnh là giá dầu giảm và khó khăn kinh tế của Nga.
* Quan hệ Nga – Trung trong năm qua phát triển mạnh, song được xem là dựa trên yếu tố lợi ích hơn là có nền tảng lòng tin bền vững. Ông nhìn nhận thế nào về điều đó?
Trong quan hệ Nga – Trung có yếu tố tính thực dụng, Song yếu tố lợi ích cũng đi kèm cả yếu tố lòng tin, không có lòng tin quan hệ không bền được. Lợi ích giữa hai bên là có thực. Về kinh tế là việc ký hợp đồng dầu khí Nga – Trung, hai nước đã đàm phán suốt 20 năm và chưa đi đến đâu, nhưng sau sự kiện Crưm thì ký.
Về chính trị 2 bên đều lo ngại bị Mỹ và phương Tây kiềm chế ảnh hưởng ở Châu Âu, Châu Á Thái Bình Dương, nên có nhu cầu xích lại gần nhau, tăng sức mạnh trong việc đối phó với Mỹ và phương Tây. Nga cần bán vũ khí cho thị trường Trung Quốc để giải “cơn khát” ngoại tệ; trong bối cảnh mặt cạnh tranh trong quan hệ với phương Tây tăng lên, Trung Quốc cũng cần dựa vào Nga để rút nhanh tiến trình hiện đại hóa quân sự. Lợi ích mà không có lòng tin thì không thể đẩy mạnh quan hệ trên tất cả các mặt như vậy.
* Nói về quan hệ của Nga với phương Tây, ông có đồng ý với cảnh báo của cựu Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev rằng hai bên đang đứng trên bờ vực Chiến tranh Lạnh hay không?
Tôi cho rằng ông Gorbachev có ý nói rằng quan hệ hai bên rất căng thẳng, không khác Chiến tranh Lạnh mấy, thiếu mỗi xung đột quân sự thôi. Nhưng phạm vi ảnh hưởng không như Chiến tranh Lạnh. Trong thời kỳ đó, tương quan lực lượng tương đối cân bằng: Một bên là Liên Xô và phe XHCN. Một bên là là NATO và EU với 18 thành viên. Nhưng bây giờ NATO mở rộng thành 28 thành viên, EU 28 thành viên, còn Nga không có tập hợp lực lượng đủ mạnh để cân bằng cả về chính trị, kinh tế với phương Tây. Chiến tranh Lạnh tạo ra sự phân cực trên toàn thế giới. Nhưng bây giờ sự phân cực không rõ ràng, đối đầu chỉ ảnh hưởng đến một phần khu vực Châu Âu, nơi Mỹ, phương Tây và Nga cùng cạnh tranh ảnh hưởng. Nên nói Chiến tranh Lạnh là không phù hợp. Theo tôi hiểu, ông Gorbachev chỉ nhằm vào mức độ căng thẳng hiện nay mà thôi, còn tính chất và phạm vi ảnh hưởng thì khác hẳn nhau.
* Liệu có phải sự căng thẳng hai bên hiện nay được “bồi” thêm bởi cuộc chiến truyền thông không cân sức hay không, nhất là sau tai nạn máy bay MH17 ở Donetsk, Ukraina?
Trong cuộc đối đầu hiện nay, Mỹ và phương Tây có lợi thế hơn, có sức mạnh tổng hợp khá áp đảo với Nga. Liên quan đến cuộc chiến truyền thông, có thể thấy Mỹ và phương Tây khống chế 90% lượng thông tin trên thế giới. Họ nắm các cơ quan truyền thông rất lớn trên thế giới, CNN, BBC, Fox News…, nắm các công nghệ hiện đại, họ chi phối cuộc chiến thông tin này, do vậy họ chi phối cả đối tượng tiếp nhận thông tin. Điều này không mới.
Trong Chiến tranh Lạnh Mỹ và phương Tây cũng đã chi phối, định kiến của họ làm nhân dân thế giới xa lánh dần Liên Xô và khối XHCN, góp phần gây ra sự sụp đổ của Liên Xô, Bây giờ cũng vậy. Sau vụ MH17, phương Tây lập tức đổ lỗi cho Nga, và khi không có bằng chứng thì họ nói rằng Nga ủng hộ phe ly khai bắn rơi máy bay, theo cách nào Nga cũng “có lỗi”.
* Mặc dù áp đặt lệnh trừng phạt với Nga song Mỹ vẫn ký hợp đồng dầu khí với Nga. Như vậy có phải là Mỹ “nắm đằng chuôi” trong quan hệ này hay không, thưa ông?
Thực ra là họ tiếp tục các hợp đồng đã ký. Lợi ích của Mỹ và phương Tây trong quan hệ với Nga vẫn lớn. Họ vừa muốn làm suy yếu và cấm vận Nga, nhưng cũng muốn cấm vận không ảnh hưởng đến lợi ích của Mỹ và phương Tây. Dù vậy, trên thực tế hành động cấm vận có tác động lớn: Đó không chỉ là cấm vận với một số ngành, một số cá nhân, mà quan trọng hơn, nó chuyển đi thông điệp rằng làm ăn với Nga không an toàn, nó tạo ra sự lưỡng lự của các nhà đầu tư. Do vậy dòng tiền chuyền từ Nga ra nước ngoài trong năm 2014 lớn gấp 2,5 lần so mức độ trung bình của 5 – 7 năm qua, khoảng 128 tỉ USD so với 50 tỉ USD, khiến môi trường đầu tư của Nga không an toàn nữa, và đầu tư vào Nga từ phương Tây cũng giảm.
Lệnh trừng phạt còn gây khó khăn trong quan hệ thương mại của Nga với phương tây, ảnh hưởng trực tiếp đến đồng rúp Nga, xuất khẩu dầu mỏ của Nga. Xuất khẩu dầu sang Châu Âu chiếm trên 70% tổng xuất khẩu dầu mỏ ra ngoài. Nguồn tiền từ xuất khẩu dầu chiếm trên 50% ngân sách Nga, khiến Nga bị ảnh hưởng nặng nề về kinh tế.
* Khi họp báo hàng năm, Tổng thống Putin tuyên bố Nga sẽ mất khoảng 2 năm để thoát khỏi suy thoái kinh tế. Vậy theo ông, khoảng thời gian đó có đủ để Nga khôi phục kinh tế cũng như sức mạnh của họ hay không?
Có mấy yếu tố tạo nên nền tảng sức mạnh của Nga. Kinh tế Nga từ sau 2000 tăng trưởng nhanh, 5-6%, Nga được xếp là nền kinh tế đang trỗi dậy trong khối BRICS. Song tăng trưởng đó là xuất phát từ giá dầu lửa, không phải nền tảng về sản xuất, khoa học kỹ thuật hay sức cạnh tranh nền kinh tế Nga. Sự ổn định trong xã hội Nga cũng xuất phát từ khả năng chính trị của Tổng thống Putin, biến một xã hội rối loạn thành trật tự, có kỷ cương, có sự đồng nhất cao. Ông Putin có khả năng tập hợp lực lượng, thống nhất người dân. Khả năng chính trị của Putin có sự hậu thuẫn từ việc phát triển kinh tế. Sức mạnh của Nga còn xuất phát từ sức mạnh quân sự, Nga có nền quân sự, quốc phòng lớn, nhưng cũng dựa trên nền tảng kinh tế. Song bây giờ, nền kinh tế Nga đang rung rinh.
Ông Putin tuyên bố 2 năm thoát khủng hoảng là một tuyên bố chính trị. Ông đặt niềm tin lớn vào giá dầu. Nhưng dựa trên các nguồn lực tạo nên sức mạnh của Nga mà xét, thì hy vọng là một chuyện, còn thực tế nghiệt ngã hơn nhiều.
Khủng hoảng của Nga về kinh tế chưa từng có tiền lệ. Nga khủng hoảng trong khi các trung tâm kinh tế khác chỉ phát triển chậm lại, và thực ra là Nga bị ảnh hưởng lớn nhất. Khủng hoảng diễn ra trong bối cảnh Nga bị phương Tây bao vây cấm vận, càng ngày siết chặt. Khủng hoảng kinh tế hiện nay gắn với vấn đề xã hội chính trị, không chỉ là khủng hoảng kinh tế đơn thuần. Trong khi các nước gặp khủng hoảng, có những tác động từ bên ngoài, nhưng với Nga thì chưa thấy “ánh sáng cuối đường hầm”. Các nhà phân tích đưa ra nhiều kịch bản để Nga thoát khỏi khủng hoảng, song dù kịch bản nào thì cũng nói về các ưu thế của phương Tây, trong khi sức mạnh tổng thể của Nga yếu đi.
Nga là bài học để Trung Quốc hành xử với láng giềng
*Năm qua, TQ quả quyết hơn trong thực thi đòi hỏi chủ quyền và hành xử với các nước trong khu vực. Điều đó, theo ông, gây nguy hại tới mức nào đến an ninh chính trị của khu vực?
Năm 2014, lần đầu tiên sau hàng trăm năm, TQ lấy lại vị thế là nền kinh tế lớn nhất thế giới, tính theo sức mua ngang giá (PPP). Sự trỗi dậy của TQ về kinh tế, kéo theo sự tăng cường ảnh hưởng về chính trị, sức mạnh quốc phòng. Trong cách hành xử của mình, lãnh đạo TQ có thái độ tự tin và quyết đoán hơn, mong muốn thiết lập một trật tự mà TQ có vai trò trung tâm.
Năm qua, TQ đưa nhiều sáng kiến khác nhau về kinh tế, chính trị, an ninh, khẳng định quyết tâm của TQ mong thiết lập một trật tự mới. Trong lĩnh vực tài chính, thương mại, TQ đưa ra sáng kiến thiết lập Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á, cạnh tranh trực tiếp với Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các sáng kiến thiết lập con đường tơ lụa trên biển, trên bộ, đề nghị thiết lập khu vực thương mại tự do Châu Á – Thái Bình Dương. Trong lĩnh vực an ninh, TQ đưa ra đề nghị thiết lập một cấu trúc khu vực mới về an ninh bao gồm TQ – Nga – Iran…
Với sức mạnh đang lên, TQ ngày càng tự tin trong việc mở rộng ảnh hưởng của mình. Điều này cũng liên quan tới việc sắp xếp lại thứ tự ưu tiên trong chính sách đối ngoại. Tại Hội nghị trung ương về đối ngoại ngày 28.11.2014 tại Bắc Kinh, Chủ tịch TQ Tập Cận Bình đưa ra sáng kiến đặt quan hệ ngoại giao với láng giềng trở thành trọng tâm trong chính sách đối ngoại của TQ, cao hơn quan hệ của TQ với các nước lớn. Điều này cũng phù hợp với thực tế là quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư của TQ với các nước láng giềng vượt xa quan hệ với Mỹ. Khu vực này cũng có tầm quan trọng thiết yếu trong việc duy trì môi trường an ninh, chiến lược hòa bình để TQ thực hiện “Giấc mơ phục hưng Trung Hoa”. Điều này hy vọng sẽ đem lại các lợi ích to lớn cả về kinh tế lẫn chính trị, mà Việt Nam và các nước ASEAN cần sớm đón bắt và thúc đẩy xu hướng này.
Bên cạnh đó, sự trỗi dậy của TQ cũng gây ra các mối lo ngại về việc gây ra các rạn nứt trong cấu trúc kinh tế, chính trị, an ninh đã hình thành trước đó, gây ra lo ngại về cách thức TQ xử lý vấn đề tranh chấp lãnh thổ gây bất ổn, bất an ở khu vực. Hiện, trong khu vực đang có sự cạnh tranh ảnh hưởng lớn, không chỉ Mỹ và TQ xoay trục sang Đông Á, các nước lớn khác trong và ngoài khu vực như Nga, Ấn Độ, Nhật Bản cũng tái cân bằng với khu vực, tạo ra sự cạnh tranh, và cọ xát quyền lực. Tuy chưa đến mức phân cực như thời kỳ Chiến tranh lạnh, nhưng đang gây lo ngại về khả năng chia rẽ và tập hợp lực lượng mới.
*TQ vẫn cảnh báo không nên “kiềm chế sự trỗi dậy” của họ. Tuy nhiên, trong khi họ tăng cường ảnh hưởng ra bên ngoài, liệu có cần cách nào đó để kiềm chế sự quả quyết của họ không?
Khi trao đổi với một nhà nghiên cứu về TQ cách đây chưa lâu, ông ta có nói với tôi rằng không ai có thể kiềm chế, ngăn chặn được TQ, mà chỉ có người TQ làm điều đó. Tôi quan sát rất kỹ về trường hợp của Nga trong thời gian qua. Không ai nghĩ một cường quốc thế giới như Nga lại suy yếu nhanh trong một thời gian ngắn như vậy. Ở đây, tôi không bàn đến sự đúng – sai của vấn đề. Khi cuộc khủng hoảng với phương Tây diễn ra, nhiều mặt yếu của Nga bị phơi bày và cho thấy, thực chất toàn bộ sức mạnh đều dựa trên yếu tố dầu lửa, khí đốt và giá của 2 mặt hàng quan trọng này. Vũ khí hạt nhân và sức mạnh quân sự không có đất dụng võ, “vũ khí” dầu lửa vốn rất mạnh trước đây nay không còn hữu dụng, còn sức ảnh hưởng chính trị bị giảm sút sau khi “mất ghế” trong G8.
TQ chắc hẳn phải tự nhìn lại mình, nhìn bài học của Nga để rút ra bài học cho mình. Crưm không thể so sánh được với Biển Đông trên mọi phương diện về địa kinh tế, địa chiến lược. Vậy mà, khi vấn đề Crưm diễn ra, phương Tây đồng lòng và hợp sức quyết làm suy yếu nước Nga. Vậy, nếu TQ tìm cách khống chế chiếm đoạt một khu vực quan trọng như Biển Đông, chúng ta có nghĩ cộng đồng quốc tế và phương Tây “khoanh tay” ngồi nhìn? Đặt ra câu hỏi có nghĩa đã biết câu trả lời. Vậy nguồn gốc tạo ra “sức mạnh” TQ là gì? Sức mạnh này có phải bất khả chiến bại hay không? Nếu cộng đồng quốc tế đồng lòng phản đối hành động gây hấn của TQ, TQ có đối phó được không và đối phó ra sao? Chúng ta nói TQ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới là nói đến “độ to”, “độ lớn” chứ chưa phải độ “mạnh”. “To” và “mạnh” là hai khái niệm, hai câu chuyện rất khác nhau đấy nhé.
Tôi cho rằng, nếu rút ra được bài học hữu ích nhất, TQ sẽ hành xử một cách có trách nhiệm, xử lý hòa bình đối với tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng trên cơ sở luật pháp quốc tế, cùng ASEAN bàn về việc tiến tới COC.
Biển Đông nếu nóng lên, sẽ nóng gấp nhiều lần câu chuyện giàn khoan
* Trung Quốc hành xử quyết đoán như vậy thì liệu Biển Đông trong năm 2015 có nóng hơn câu chuyện giàn khoan năm qua không, thưa ông?
Tình hình Biển Đông từ cả chục năm qua cho thấy tình hình Biển Đông “nóng lên”, hay “nguội đi” hoàn toàn phụ thuộc vào cách hành xử của Trung Quốc.
Như chúng ta đã thấy, cách hành xử quyết đoán của Trung Quốc không phải là điều mới. Tuy nhiên, trong năm 2014 tích chất, quy mô và phạm vi của hành động quyết đoán đã được đẩy lên một mức mới. Sự quyết đoán này diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc vừa mới bắt đầu thực thi chính sách “Tấn công bằng thiện cảm” (Charm Offensive) lần 2 đối với ASEAN sau khi Trung Quốc có lãnh đạo mới sau Đại hội XVIII. Ở đây có 2 điểm đáng chú ý: Một là, sau khi thực thi chính sách quyết đoán đối với tranh chấp tại Biển Đông, Trung Quốc đã thấy được sự phản ứng mềm mỏng nhưng cương quyết của Việt Nam, sự phản ứng mạnh mẽ của ASEAN và cộng đồng quốc tế, nên tạm thời có những bước “xuống thang” chiến thuật. Hai là, khi đã xuống thang như vậy, nhưng Trung Quốc cũng chưa có bất cứ cam kết hay tuyên bố công khai nào về việc Trung Quốc sẽ từ bỏ cách hành xử quyết đoán như vậy trong tương lai.
Từ đó, tôi cho rằng hoàn toàn có khả năng Trung Quốc sẽ tiếp tục cách hành xử của mình như vậy trong năm 2015. Và nếu điều đó xảy ra thì việc Biển Đông nóng lên trong năm tới là điều được dự báo trước, và nếu có “nóng” hơn thì chắc chắn sẽ “nóng” hơn gấp nhiều lần, vì Trung Quốc sẽ không dùng “bổn cũ soạn lại” mà có cách tiếp cận khác trước.
Tuy nhiên, cũng có một số lý do để hy vọng. Một là, Trung Quốc đã thấy các hạn chế của chính sách quyết đoán này, thấy được bài học từ Nga. Hai là, Trung Quốc vừa mới công bố chuyển hướng ưu tiên đối ngoại mới, theo đó đặt trọng tâm trong quan hệ với các láng giềng. Mục tiêu của sự điều chỉnh này sẽ không thể đạt được nếu Trung Quốc làm xấu đi môi trường chiến lược và xa lánh các nước láng giềng bằng chính sách quyết đoán. Là nhà nghiên cứu chiến lược, tôi luôn hy vọng điều tốt đẹp nhất xảy ra, nhưng cũng đồng thời phải chuẩn bị cho các phương án xấu nhất.
* ASEAN năm tới dưới nhiệm kỳ Chủ tịch Malaysia không xem Biển Đông là trọng tâm. Vậy điều nay có đặt ra thách thức với Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền?
Theo tôi, nên đặt và hiểu vấn đề thế này: Thứ nhất, việc xây dựng chương trình nghị sự của ASEAN là công việc chung của ASEAN. Là nước chủ nhà ASEAN năm 2015, Malaysia có tiếng nói quan trọng nhưng không phải là tiếng nói quyết định. Việc xây dựng chương trình nghị sự, trong đó có vấn đề Biển Đông, phải nhận được sự đồng thuận của các nước thành viên khác trong đó có Việt Nam.
Thứ hai, ta không nên hiểu và đặt vấn đề Biển Đông chỉ là việc liên quan đến Việt Nam, mà nên phải coi vấn đề Biển Đông là câu chuyện chung của ASEAN, của cộng đồng quốc tế và thực tế đúng là như vậy.
Thứ ba, việc Malaysia nêu ra như vậy thể hiện mong muốn của ASEAN, và của một số nước khác là muốn tập trung vào các điểm đồng, muốn Biển Đông là khu vực hòa bình và hợp tác. Đây cũng là mong muốn của chính Việt Nam. Tuy nhiên, dự tính là như vậy, nhưng nếu tình hình thay đổi, ý tôi nói là Biển Đông nóng lên, thì chương trình nghị sự của ASEAN cũng phải thay đổi theo cho phù hợp với bối cảnh mới.
Thứ tư, nhiều diễn đàn ASEAN là diễn đàn mở, như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS) là nơi các nước thành viên ASEAN, các nhà lãnh đạo có quyền bày tỏ tất cả các vấn đề mà họ quan tâm và thấy tác động tới môi trường an ninh khu vực.
* Trong bối cảnh quan hệ các nước lớn thay đổi như vậy, và trong bối cảnh an ninh, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam bị đe dọa mạnh mẽ, liệu Việt Nam có phải tạo ra những liên kết mới để đảm bảo an ninh chiến lược của đất nước?
Nhìn lại lịch sử cận đại của VN, chúng ta thấy thành công của chúng ta là thực hiện một chính sách đối ngoại độc lập tự chủ. Đây là điểm cốt lõi xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Bên cạnh đó một nhân tố khác tạo nên thành công của ta là kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Sức mạnh dân tộc liên quan đến yếu tố bên trong, là sự cố kết chính trị, là sự đồng lòng từ trên xuống dưới, là việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh. Nội lực ở đây còn là sự vững mạnh về kinh tế. Muốn đảm bảo an ninh chủ quyền thì phải xây dựng được một nền kinh tế hiện đại, đủ mạnh để giúp người dân có cuộc sống thịnh vượng, có đủ khả năng xây dựng được một nềnquốc phòng hiện đại, đủ sức đối phó hữu hiệu với các thách thức an ninh bên ngoài. Khi chúng ta có nội lực mạnh thì đối phương bên ngoài sẽ bớt có ý định xâm phạm chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của ta, và giả sử nếu có liều mạng xâm phạm thì không thể chiến thắng và buộc phải trả giá rất đắt.
Tuy nhiên chỉ có nội lực thôi thì chưa đủ, mà phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, và sức mạnh thời đại, như chúng ta đã làm và làm thành công trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trước đây. Tôi rất tâm đắc với cách tiếp cận của nguyên Tổng Bí Thư Lê Duẩn và lãnh đạo Đảng ta thời kỳ chống Mỹ cứu nước xây dựng thành công luận thuyết “Ba dòng thác cách mạng”, đặt Việt Nam ở ngọn cờ đầu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhờ vậy mà trong bối cảnh tình hình thế giới hết sức phức tạp, trong bối cảnh so sánh lực lượng không cân sức, nhưng chúng ta vẫn nhận được sự ủng hộ của cả Liên Xô và Trung Quốc (trong bối cảnh mâu thuẫn Xô-Trung lên đến đỉnh điểm), sự ủng hộ của phe XHCN, của phong trào cộng sản và công nhân thế giới, của các nước đang phát triển tạo thành làn sóng ủng hộ Việt Nam rộng khắp và chưa từng có.
Trong bối cảnh hiện nay việc nêu lại luận thuyết “Ba dòng thác cách mạng” có thể không còn phù hợp, nhưng cách tiếp cận thì vẫn còn nguyên giá trị. Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, chúng ta đã gắn lợi ích của Việt Nam với lợi ích của khu vực và thế giới, nhờ vậy đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các nước khu vực và dư luận quốc tế.
Thứ nhất, ta nêu cao ngọn cờ chính nghĩa, khẳng định và có các bằng chúng không thể chối cãi về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thứ hai, ta nêu cao ngọn cờ hòa bình, sử dung công cụ ngoại giao để giải quyết tranh chấp. Dù chịu sức ép lớn từ bên ngoài nhưng chúng ta vẫn kiên trì đường lối đối ngoại hòa bình, mong muốn giải quyết bằng hòa bình các tranh chấp, và các nước thấy lòng khát khao yêu chuộng hòa bình của chúng ta. Thứ ba, chúng ta đề cao công cụ luật pháp quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ trong khu vực, nhờ vậy ta tập hợp được lực lượng ngay trong ASEAN và trên thế giới.
Càng ngày nhận thức chung của khu vực và thế giới đều thấy rằng, vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông không phải là câu chuyện riêng của Trung Quốc, của quan hệ song phương giữa Trung Quốc với VN hay các nước ASEAN, mà là câu chuyện có ý nghĩa chiến lược toàn cầu, nơi lợi ích quốc gia của họ ngày càng gắn chặt với hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
* Trân trọng cảm ơn ông đã dành cho Lao Động bài phỏng vấn cuối năm quan trọng này.
Nguồn: Tổng hợp từ Laodong.com.vn