Hội chứng Việt Nam (Vietnam Syndrome)

Tác giả: Trần Nam Tiến

Hội chứng Việt Nam là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến tại Mỹ, để mô tả những chấn động trong tâm lý của người Mỹ cũng như những tranh cãi nội bộ của chính giới Mỹ liên quan đến chính sách can thiệp của Mỹ vào cuộc Chiến tranh Việt Nam. Hội chứng này được bộc lộ ở các hiện tượng xã hội – chính trị – kinh tế… như: khủng hoảng lòng tin, tâm trạng chán chường, mặc cảm của nhân dân Mỹ, đặc biệt là thanh niên đối với cuộc chiến (phong trào chống quân dịch, phản đối chiến tranh); sự ám ảnh bởi tội lỗi do họ gây ra của phần lớn lính Mỹ tham chiến ở Việt Nam…; nội bộ nước Mỹ chia rẽ, giới cầm quyền mâu thuẫn sâu sắc, nhất là trong hoạch định chính sách đối ngoại; sự gia tăng tốc độ suy thoái kinh tế và các tệ nạn xã hội; sự suy giảm vị thế của Mỹ trên thế giới…

Thuật ngữ này được Tổng thống Ronald Reagan đưa ra lần đầu tiên trong một bài diễn văn tại một hội nghị của các cựu chiến binh Mỹ tổ chức tại thành phố Chicago ngày 18 tháng 8 năm 1980. Thuật ngữ này nhanh chóng trở thành đề tài tranh cãi trong nội bộ phe bảo thủ về việc hoạch định chính sách đối ngoại Mỹ, mà ban đầu được dùng để chống lại chính sách hoà dịu của chính quyền Jimmy Carter (1977 – 1981). Các học giả như Ole Holsti và James Rosenau cho rằng chính chính sách can thiệp quốc tế của Mỹ đã khiến cho quốc gia này mất dần sự đồng thuận của cộng đồng quốc tế thời Chiến tranh Lạnh.

Các nhà phân tích thời kỳ sau 1975 cho rằng sự thất bại của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam càng làm cho những lời cảnh cáo này trở nên rõ ràng hơn. Tuy nhiên, Reagan cùng những người bảo thủ cho rằng do Hội chứng Việt Nam, chính quyền Carter đã giảm chính sách can thiệp ở bên ngoài, đi vào hòa hoãn với Liên Xô trong khi Liên Xô tăng cường chạy đua vũ trang, khiến cho vị thế sức mạnh toàn cầu của Mỹ trở nên suy yếu tương đối. Chính vì vậy Reagan cho rằng nước Mỹ cần vượt qua Hội chứng Việt Nam và quay lại chính sách can thiệp quốc tế. Điều này dẫn tới việc chính quyền của Reagan thực hiện những chính sách mang tính bảo thủ, hiếu chiến trong những năm 1980, như tăng cường can thiệp quân sự ở nước ngoài hay tích cực chạy đua vũ trang với Liên Xô.

Trở lại nguồn gốc của Hội chứng Việt Nam, trong những năm 1970, những cuộc điều tra dư luận cho thấy kết quả thăm dò ở mọi tầng lớp nhân dân Mỹ đều cho rằng sự can thiệp của quân đội Mỹ ở Việt Nam là một “sai lầm”. Nước Mỹ đã huy động 6,5 triệu lượt binh sĩ sang tham chiến trong Chiến tranh Việt Nam. Số binh sĩ Mỹ ở miền Nam Việt Nam lúc cao điểm lên đến 545.000 người với hơn 1100 máy bay và 60 tàu chiến. Cho đến lúc kết thúc cuộc chiến tranh, 2 tổng thống Mỹ đã phải từ chức, 12 viên tướng chết trận, 8 viên tướng bị thương, số binh sĩ bị giết lên đến 57.259 người, trong khi đó số binh sĩ bị thương và mất tích đến nay vẫn chưa thể xác định được.

Các cuộc biểu tình phản đối chính phủ leo thang chiến tranh tại Việt Nam thường xuyên diễn ra không chỉ trên khắp nước Mỹ và còn lan rộng ra toàn thế giới. Kể từ cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai cho đến khi cuộc Chiến tranh Việt Nam kết thúc, nước Mỹ đã tiến hành nhiều cuộc can thiệp quân sự, nhưng chưa khi nào nước Mỹ bị sa lầy và tổn thất lớn đến mức phải chấp nhận thất bại như ở Việt Nam. Bản thân McNamara – Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ thời điểm đó cũng phải thừa nhận nước Mỹ đã sai lầm một cách khủng khiếp khi đã gây nên một cuộc chiến mà không hề hiểu gì về sức mạnh tinh thần của người dân Việt Nam. Thất bại của người Mỹ đã gây nên những chấn động về tinh thần và sự mất lòng tin của người dân vào chính sách can thiệp của Chính phủ Mỹ.

Sau khi Reagan lên cầm quyền, Hội chứng Việt Nam vẫn tiếp tục có những tác động lên chính sách đối ngoại Mỹ. Ví dụ, chính sách can thiệp của Reagan vào công việc nội bộ của Chính phủ Nacaragua qua việc ủng hộ lực lượng Contra đã gợi lại những ký ức khó chịu về chính sách can thiệp của Mỹ ở nước ngoài, đặc biệt là thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chính vì vậy, có thể nói dưới tác động cùa Hội chứng Việt Nam, Quốc hội Mỹ sau đó đã phải bổ sung Tu chính án Boland vào Dự luật Tài chính Hạ viện năm 1982 nhằm ngăn chặn việc chính phủ Mỹ tài trợ cho lực lượng Contra nhằm lật đổ chính quyền Nicaragua.

Thế nhưng nhìn chung bất chấp những tác động của Hội chứng Việt Nam, nước Mỹ từ sau 1975 trong nhiều trường hợp vẫn thi hành chính sách can thiệp ở nước ngoài, biến can thiệp ở nước ngoài gần như trở thành một đặc điểm của chính sách đối ngoại Mỹ. Trong những trường hợp đó, những giới hạn và lối thoát chiến lược luôn là những điều kiện thiết yếu được cân nhắc trước khi Mỹ tiến hành can thiệp nhằm tránh một sự sa lầy như trong Chiến tranh Việt Nam. Nước Mỹ cũng đã tiến hành cuộc Chiến tranh vùng Vịnh nhằm tìm kiếm chiến thắng để xoa dịu vết thương của Hội chứng Việt Nam.

Thế nhưng vẫn còn quá sớm để có thể kết luận về điều này. Một điều rõ ràng hơn đó là Hội chứng Việt Nam đã đặt một sức ép nặng nề lên việc sử dụng quân đội Mỹ ở nước ngoài. Những cam kết ngắn hạn ít tốn kém hơn (ít nhất là cho nước Mỹ) đã trở thành ưu tiên của nước này khi tiến hành can thiệp ở nước ngoài. Mặc dù vậy, sau sự kiện 11/9, Mỹ đã tiến hành hai cuộc chiến tranh ở Afghanistan và đặc biệt là Iraq, đi kèm sau đó là thời kỳ chiếm đóng kéo dài và những thiệt hại về vật chất và nhân mạng ngày càng gia tăng. Điều này khiến nhiều người quan ngại rằng Hội chứng Việt Nam sẽ tái hiện trở lại trong những cuộc chiến này của người Mỹ.

Nguồn: Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).