Tác giả: Nguyễn Hồng Quân
Từ hơn 60 năm qua, Trung Quốc lúc âm thầm, lúc trắng trợn thực hiện mưu đồ độc chiếm Biển Đông, bằng nhiều thủ đoạn, chiến thuật. Bài viết làm rõ một số chiến thuật mà Trung Quốc áp dụng đối với ASEAN, hòng độc chiếm Biển Đông, đồng thời kiến nghị một số giải pháp ASEAN cần và có thể thực hiện nhằm kiềm chế tham vọng của Trung Quốc.
Chiến thuật của Trung Quốc đối với các nước ASEAN
Chia rẽ các nước ASEAN
Trung Quốc tiến hành chia rẽ, phân hóa các nước ASEAN, nhất là chia rẽ ASEAN với Việt Nam, nhằm phân tán sức mạnh đoàn kết của ASEAN. Một khi ASEAN bị chia rẽ, không coi Biển Đông là vấn đề chung của Hiệp hội mà chỉ là vấn đề giữa Trung Quốc với một nước ASEAN thì Trung Quốc có thể dễ đạt được các thoả hiệp có lợi nhất về vấn đề Biển Đông.
Nhằm mục tiêu ấy, Trung Quốc đã lợi dụng sự bất đồng về lợi ích, về quan điểm giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông của các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền để gây chia rẽ, không để các nước này đoàn kết thành một khối để đối trọng với Trung Quốc; bên cạnh đó, Trung Quốc sử dụng con bài “viện trợ”1 để các nước này vì lợi ích quốc gia trước mắt mà không ủng hộ các nước ASEAN khác trong “hồ sơ Biển Đông”; chủ trương đàm phán riêng rẽ đối với các nước có liên quan trực tiếp đếntranh chấp ở Biển Đông để đạt lợi ích riêng, tạo nghi ngờ giữa các nước ASEAN có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.
Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng đối với các nước ASEAN khác nhằm tách họ khỏi các vấn đề Biển Đông, tập trung bao vây, cô lập Việt Nam với các nước ASEAN, vì Trung Quốc cho rằng Việt Nam là lực cản lớn nhất đối với chiến lược độc chiếm Biển Đông của họ. Điều đó giải thích vì sao có những nước có quan hệ rất tốt với Việt Nam, nhưng không dám bày tỏ ủng hộ mạnh mẽ Việt Nam trong vấn đề Biển Đông, thậm chí coi đây là chuyện riêng giữa Trung Quốc với Việt Nam, giữa Trung Quốc với Phi-líp-pin, hoặc né tránh bày tỏ quan điểm bằng lý do “không can thiệp công việc nội bộ nước khác”.
Trung Quốc đưa ra các sáng kiến “Vịnh Bắc Bộ mở rộng” với chủ trương “gác tranh chấp cùng khai thác”, muốn biến Biển Đông thành “con đường tơ lụa trên biển” trong thế kỷ 21, để lôi kéo các nước ASEAN có liên quan đến tranh chấp ở Biển Đông và chứng tỏ với ASEAN là Trung Quốc muốn giải quyết hòa bình vấn đề Biển Đông,
Phản đối đàm phán đa phương với ASEAN về vấn đề Biển Đông
Trung Quốc chủ trương đàm phán song phương với từng nước ASEAN, không đàm phán chung với cả Hiệp hội về vấn đề Biển Đông. Chủ trương của Trung Quốc là chủ quyền ở Biển Đông thuộc về Trung Quốc và hạ thấp vai trò, sức mạnh tập thể của ASEAN trong các vấn đề an ninh khu vực, dùng sức mạnh của nước lớn để giải quyết riêng rẽ với từng nước thành viên ASEAN có tranh chấp chủ quyền, qua đó làm tăng vai trò nước lớn của Trung Quốc.
Cùng với việc phản đối đàm phán về vấn đề Biển Đông với ASEAN, Trung Quốc đồng thời vô hiệu hóa các nội dung Tuyên bố về Ứng xử của các bên liên quan trên Biển Đông (DOC) mà hai bên phải mất 12 năm đàm phán mới đi đến ký kết năm 2002.[1] Trung Quốc luôn nói tuân thủ DOC, nhưng thực tế Trung Quốc trắng trợn hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 vào sâu vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam từ ngày 1/5/2014, đưa các tàu, kể cả tàu chiến và máy bay quân sự chủ động đâm va, dùng vũ lực đối với các lực lượng chấp pháp dân sự, thậm chí đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, đe dọa an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông, bất chấp phản đối của Việt Nam và nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế. Hành động này không chỉ vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc (LHQ), Công ước LHQ về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982), mà còn vi phạm DOC mà Trung Quốc là một bên ký kết. Trung Quốc còn công bố một tấm bản đồ “đường 10 đoạn” dựa trên cơ sở “đường 9 đoạn” phi lý, phi pháp, ngang ngược ghi chú các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam hay quần đảo đang tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản vào lãnh thổ của Trung Quốc.[2] Mấy năm trước, Trung Quốc đã từng có hành động tương tự khi vẽ bản đồ “đường lưỡi bò” (đường 9 đoạn) phi pháp lên hộ chiếu của công dân nước này. Hành động đó đã bị nhiều nước liên quan phản đối kịch liệt. Nếu “đường 10 đoạn” đó thành hiện thực, các nước ven bờ Biển Đông chỉ cần “bước chân” ra khỏi nhà là xâm phạm vào “vùng biển” của Trung Quốc.
Trung Quốc tìm lý do trì hoãn bàn và ký kết với ASEAN về Bộ Quy tắc Ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông (COC). Trong khi chưa ký được COC, Trung Quốc đã tự mình từ bỏ DOC.
Lôi kéo ASEAN ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực
Trung Quốc vận động để ASEAN không ủng hộ lập trường của Mỹ trong vấn đề Biển Đông và sử dụng vấn đề này nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực. Trung Quốc luôn coi Đông Nam Á là “khu vực ảnh hưởng truyền thống” của mình. Trước việc Mỹ thực hiện chính sách “tái cân bằng” ở khu vực, lấy Biển Đông làm khâu đột phá để làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc, nước này đã tìm cách phản công lại bằng cách quy kết lập trường của Mỹ về Biển Đông chỉ mang lại lợi ích cho Mỹ, không có lợi cho ASEAN.
Trung Quốc ban hành các quy định về vùng đặc quyền kinh tế, cấm các nước khác khảo sát, đo đạc trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc; phản đối hoạt động của các tàu do thám Mỹ, mưu toan đẩy hải quân Mỹ ra khỏi Biển Đông nhằm phá thế bao vây về quân sự của Mỹ. Đồng thời, Trung Quốc mưu toan dùng quân sự để khống chế các đường hàng hải quốc tế ở Biển Đông nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực và hạn chế khả năng Mỹ can thiệp vào vấn đề Đài Loan khi có tình huống xảy ra. Việc Trung Quốc mới công bố bản đồ “đường 10 đoạn” một lần nữa khẳng định âm mưu độc chiếm Biển Đông, để từ đây Hải quân Trung Quốc tiếp cận Thái Bình Dương, giáp với Mỹ cũng như tiến ra Ấn Độ dương.[3] Với mục tiêu trở thành “cường quốc biển”, Trung Quốc sẽ cạnh tranh quyết liệt với Mỹ về địa vị “lãnh đạo thế giới”.
Mưu toan kiểm soát, “gặm nhấm” Biển Đông bằng sức mạnh
Trung Quốc chủ trương dùng sức mạnh tổng hợp để uy hiếp ASEAN, buộc các nước ASEAN phải nhượng bộ trong vấn đề Biển Đông; chủ trương kiểm soát thực tế trên biển, khiến thế giới phải thừa nhận Biển Đông nằm trong phạm vi lợi ích của Trung Quốc.
Trung Quốc tăng cường đầu tư cho quân sự, quyết tâm thực hiện ba nhiệm vụ quan trọng (mạnh về Hải quân để trở thành cường quốc biển; chạy đua trên vũ trụ; giành ưu thế về công nghệ thông tin, chiến tranh mạng), tạo ra cục diện có lợi cho Trung Quốc, quyết đoán, mạnh mẽ, sử dụng vũ lực trắng trợn hơn trong khẳng định yêu sách chủ quyền. Kể từ năm 1998 đến nay, Trung Quốc đã tăng ngân sách quốc phòng lên 13 lần, do đó hải quân Trung Quốc đã thành hải quân hùng mạnh nhất châu Á. Việc các lực lượng hải quân, không quân, chấp pháp biển của Trung Quốc liên tục mở rộng phạm vi, cường độ hoạt động tại các vùng biển tranh chấp và tư duy sẵn sàng sử dụng vũ lực của Trung Quốc, nhất là sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18, đang làm gia tăng nguy cơ va chạm với các nước. Hải quân và kiểm ngư Trung Quốc tăng cường hoạt động ở khu vực “đường 10 đoạn” để gây sức ép với các nước ASEAN, tạo sự lo ngại va chạm của các nước có liên quan để các nước này không dám phản đối Trung Quốc. Nước này đã sử dụng các tàu thăm dò, tàu đánh cá hoạt động ở những vùng tranh chấp và tiến hành các biện pháp nhằm dân sự hóa sự hiện diện của họ.
Song song với việc áp đặt chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa, ngang nhiên đưa nhiều tàu đánh cá vào hoạt động ở ngư trường truyền thống của Việt Nam, Trung Quốc còn phái một đoàn tàu đánh cá đến Trường Sa. Khi dựa trên một đoàn tàu “dân sự” ngày càng hùng mạnh của Cục Quản lý Đại dương hay của cơ quan Ngư chính, với tàu thuyền được trang bị vũ khí nặng, Trung Quốc đang dùng chính sách “sự đã rồi” để áp đặt chủ quyền của họ. Năm 2010, Trung Quốc đã nâng Biển Đông lên hàng lợi ích cốt lõi, ngang hàng với Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương, điều này có nghĩa là Trung Quốc không chấp nhận bất kỳ thỏa hiệp nào.
Chưa hết, Trung Quốc trắng trợn san lấp biển, mở rộng đảo tại 5 đảo, bãi đá ở Biển Đông,[4] nhằm xây dựng ở đây một đường băng, kho chứa dành cho máy bay phản lực, một cầu tàu, trạm phát điện tua-bin gió v.v… Nếu kế hoạch này được thực hiện, Trung Quốc sẽ có đường băng đầu tiên tại Trường Sa. Cách thức mà Trung Quốc luôn áp dụng trong quá trình xâm lấn ở Biển Đông đầu tiên là lấy cớ xây dựng nơi trú ẩn tạm thời cho ngư dân ở khu vực tranh chấp, sau đó, biến những nơi “trú ẩn tạm thời” ấy thành các cấu trúc bê tông và nơi đồn trú của quân đội như những gì Trung Quốc đã làm ở bãi đá Vành Khăn (thuộc quần đảo Trường Sa), đẩy các nước Đông Nam Á rơi vào tình thế thực sự nguy hiểm, bởi đây có thể làm căn cứ cho các máy bay chiến đấu, như chiến đấu cơ J-11 của Trung Quốc (có phạm vi hoạt động hơn 3.200 km). Nếu lấy bãi đá Gạc Ma làm trung tâm, mở ra xung quanh bán kính khoảng hơn 1.600 km sẽ khống chế toàn bộ Việt Nam, Phi-líp-pin, một phần lãnh thổ Ma-lai-xi-a. Có được căn cứ quân sự ở bãi đá này, sẽ là tiền đề để Trung Quốc lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông. Trung Quốc có thể sẽ sử dụng phi cơ bay trên khu vực này để yểm trợ cho các hạm đội bảo vệ giàn khoan Hải Dương 981 ở khu vực Hoàng Sa. Nói cách khác, Trung Quốc có thể phát triển các hòn đảo nhân tạo này thành các căn cứ quân sự để dành quyền kiểm soát Biển Đông. Nhưng bất luận thế nào, việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo và các căn cứ quân sự là trái với tinh thần bản DOC, trong đó quy định rõ: các bên tranh chấp không được biến các đảo không người ở thành nơi có người ở, không được làm tăng bất ổn trong khu vực.
Phản đối “quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông, tránh đưa tranh chấp ra các cơ chế tài phán quốc tế
Trung Quốc luôn phớt lờ yêu cầu đàm phán với Việt Nam giải quyết vấn đề chủ quyền Hoàng Sa, luôn yêu cầu đàm phán song phương với từng nước tranh chấp chủ quyền ở Trường Sa, khước từ bên thứ ba can thiệp vào những tranh chấp trên Biển Đông vì muốn dùng áp lực nước lớn “nói chuyện” với các nước nhỏ; phản đối Phi-líp-pin, Việt Nam đưa vấn đề tranh chấp ra Tòa Trọng tài thường trực quốc tế (PCA). Trung Quốc né tránh sử dụng Luật pháp Quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982, chứng tỏ Trung Quốc yếu thế về cơ sở pháp lý trong các yêu sách chủ quyền phi lý của họ trên Biển Đông.
Gần đây Trung Quốc chủ động yêu cầu Tổng Thư ký LHQ cho lưu hành bức thư vu khống Việt Nam cản trở hoạt động của Trung Quốc ở Hoàng Sa, dùng tàu chủ động đâm các tàu công vụ của Trung Quốc v.v…đến tất cả 193 quốc gia thành viên của tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh này. Khỏi phải nói Trung Quốc “đổi trắng thay đen”, ngược đời và nực cười đến mức nào khi vu cáo Việt Nam như vậy (!).
Thử hỏi: nếu đã gửi công hàm “phản đối” Việt Nam lên Tổng Thư ký LHQ thì liệu Trung Quốc có chấp thuận để tổ chức này phân xử tranh chấp không? Chắc chắn là không. Sự chỉ trích của cộng đồng quốc tế trước những hành động của Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ và việc Trung Quốc gửi “thư phản đối” lên Tổng Thư ký LHQ không chỉ để che giấu sự thật đã bị Việt Nam vạch trần trước đó, mà còn là một nỗ lực làm giảm bớt sự phản đối Trung Quốc trong dư luận thế giới. Phải chăng, Trung Quốc gửi thư này là muốn LHQ sẽ “hợp thức hóa” việc họ hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển của Việt Nam? Kháng thư gửi LHQ cho phép người ta hiểu rằng, Trung Quốc sẽ có những bước leo thang mới trên Biển Đông và tìm cách xoa dịu trước những tác động tiêu cực tiềm tàng do hành động của họ gây nên.
ASEAN cần làm gì?
Việc Trung Quốc vi phạm UNCLOS 1982, vi phạm DOC, trì hoãn đàm phán thực chất COC, trắng trợn hạ đặt giàn khoan vào sâu vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, phớt lờ phản ứng của cộng đồng quốc tế…, báo hiệu một tương lai khó xác định về hiện thực hóa và tính màu nhiệm của COC. Các nước ASEAN (và cộng đồng quốc tế) cần nhận rõ những thủ đoạn trên, để tìm ra những biện pháp hiệu quả ngăn cản chiến lược của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông. ASEAN cần và có thể thực hiện một số biện pháp sau để hạn chế tham vọng của Trung Quốc:
Nâng cao nhận thức và trách nhiệm chính trị của mỗi thành viên
Hơn lúc nào hết, ASEAN cần có nhận thức đi cùng một quyết tâm và trách nhiệm chính trị cao hơn. Trong số các nước có yêu sách đòi chủ quyền ở Biển Đông, thì bốn nước ASEAN (gồm Việt Nam, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a và Bru-nây) có tranh chấp trực tiếp tại vùng biển này. Các nước khác như In-đô-nê-xi-a, Xinh-ga-po, Thái Lan và Cam-pu-chia là những nước nằm ven bờ Biển Đông, đều chia sẻ lợi ích chiến lược to lớn, cả kinh tế, tự do thương mại, lẫn an ninh và quốc phòng. Tuy Mi-an-ma không nằm trên bờ Biển Đông, nhưng Biển Đông là con đường thông thương hàng hải thuận lợi nhất cho nước này trong phát triển quan hệ với các nước ven bờ Thái Bình Dương, khi tuyếnHành lang Kinh tế Đông – Tây thuộc Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng trở nên thuận tiện, thì lợi ích của Mi-an-ma sẽ được nhân lên nhiều lần. Tuy không có biển, nhưng Lào cũng được hưởng lợi lớn khi sử dụng giao thông hàng hải cũng như được tham gia đánh bắt lượng hải sản dư thừa sau khi Việt Nam hoàn thành tính toán nhu cầu, mức độ, khả năng đánh bắt hải sản của ngư dân Việt Nam ở Biển Đông. Do vậy, một khi tranh chấp Biển Đông leo thang không chỉ đe dọa lợi ích quốc gia – dân tộc của các nước ASEAN ven bờ, mà còn làm xấu đi môi trường hợp tác và phát triển của toàn khối, nhất là quan hệ của ASEAN và các nước thành viên với các đối tác bên ngoài, trước hết là với Trung Quốc, Nhật Bản v.v… Các nước Đông Nam Á, nhất là các nước có yêu sách chủ quyền, dù muốn hay không, đều phải dành ngân sách nhiều hơn cho chi phí quốc phòng, làm gia tăng cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực. Điều đó không chỉ làm tổn hại đến đầu tư phát triển kinh tế, mà còn làm tăng nghi kỵ về an ninh.
Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là ASEAN đang nỗ lực hiện thực hóa Cộng đồng, trong đó có Cộng đồng An ninh – Chính trị (APSC) vào cuối năm 2015. Những nội dung và phương thức xây dựng APSC như “xây dựng và chia sẻ các chuẩn mực ứng xử” và hợp tác, tìm kiếm, thiết lập các định chế để “ngăn ngừa xung đột” trong ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài được xác định rõ trong Kế hoạch hành động năm 2004 và trong Kế hoạch Tổng thể APSC năm 2009. Như vậy, việc tham gia giải quyết mâu thuẫn, tạo lập các cơ chế để củng cố lòng tin, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông vừa là trách nhiệm, vừa là quyền lợi của ASEAN. Mỗi thành viên ASEAN phải coi đây là lợi ích của chính mình, phải coi lợi ích của toàn Hiệp hội gắn liền với lợi ích quốc gia mình. ASEAN cần thống nhất, đoàn kết hơn nữa trong việc giải quyết tranh chấp Biển Đông, tránh ngón đòn “chia để trị” của Trung Quốc. Chính sự thiếu gắn kết, thống nhất về lập trường chung và thái độ “cầm chừng” của ASEAN và một số nước thành viên trong việc thực thi các thỏa thuận đã ký kết ở cấp độ khu vực và toàn cầu liên quan đến Biển Đông (như DOC), hay UNCLOS 1982 cũng như việc chậm thông qua và ban hành COC đã và đang cản trở hiện thực hóa COC và là sự “ngầm khuyến khích” những hành động trắng trợn, ngang ngược của Trung Quốc muốn dùng vũ lực để thay đổi hiện trạng như thời gian vừa qua.
Hơn nữa, việc tham gia ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông còn giúp ASEAN duy trì và củng cố vai trò trung tâm, động lực thúc đẩy, kết nối, kiến tạo các cơ chế hợp tác đa phương ở châu Á – Thái Bình Dương, nhất là vai trò của ASEAN trong Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN và các nước đối tác(ADMM+). Điều đó làm tăng sức đề kháng của ASEAN và các nước thành viên trước sức ép gia tăng về địa – chính trị do cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, trước hết là giữa Mỹ và Trung Quốc; đồng thời làm tăng sức hấp dẫn và tính hiệu quả của ASEAN và các nước thành viên trong việc mở rộng hợp tác với các đối tác bên ngoài, đưa vị thế của ASEAN lên tầm cao mới, củng cố vị thế của ASEAN như là một nhân tố không thể thiếu trong kiến tạo môi trường hòa bình, cũng như các cơ chế hợp tác đa phương đã và đang hình thành ở khu vực. Như vậy, việc ASEAN tham gia giải quyết mâu thuẫn, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông đạt được ba mục đích: (i) góp phần hiện thực hóa APSC; (ii) hạn chế ASEAN và các nước thành viên rơi vào vòng xoáy cạnh tranh địa – chính trị của các nước lớn, duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang hình thành và (iii) góp phần giảm thiểu thế độc quyền chiến lược của một số nước lớn, trước hết là Mỹ và Trung Quốc, ở khu vực này, làm tăng phần hợp tác, chia sẻ lợi ích giữa họ và giữa họ với các nước ASEAN. Kết quả đó đã và sẽ góp phần củng cố môi trường hợp tác và an ninh khu vực, trong đó chủ quyền quốc gia – dân tộc của các thành viên ASEAN sẽ được tôn trọng. Như vậy, có thể nói, việc ASEAN tham gia giải quyết mâu thuẫn, ngăn ngừa xung đột ở Biển Đông vừa là trách nhiệm, vừa là lợi ích chiến lược của tổ chức này cũng như của mỗi quốc gia thành viên. Đây cũng là một trong những phép thử đối với hiện thực hóa APSC.
ASEAN cần sớm hoàn chỉnh cơ chế ra quyết định những vấn đề trọng yếu
Nếu nguyên tắc đồng thuận (concensus) phát huy tác dụng từ ngày ASEAN ra đời tới nay, thì gần đây nguyên tắc này đã bộc lộ những hạn chế, làm giảm tính tập trung, thống nhất mạnh mẽ cần có của Hiệp hội. ASEAN cần dũng cảm điều chỉnh nguyên tắc concensus khi ra quyết định tập thể, coi đây là một trong những điểm mấu chốt, quan trọng nhất để ASEAN đạt được thống nhất nội bộ trước khi giải quyết tranh chấp.
Đồng thời cần nghiên cứu áp dụng bổ sung cơ chế đảm bảo thống nhất, phát huy trách nhiệm và kế thừa liên tục chính sách chung của ASEAN qua các nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN theo kiểu “troika”.[5] Hai nội dung cần đổi mới trên đây trước hết cần thiết cho các phương án đấu tranh về Biển Đông nói riêng cũng như cho việc xây dựng Cộng đồng ASEAN nói chung.
Từ Hội nghị Cấp cao ASEAN – 24 đến nay, ngày càng có thêm thành viên ASEAN thể hiện tiếng nói trách nhiệm trong vấn đề Biển Đông, chứng tỏ bước chuyển mạnh mẽ trong nhận thức về trách nhiệm chính trị và lợi ích chiến lược của Hiệp hội, bởi ngăn ngừa và quản lý xung đột ở Biển Đông là phép thử đối với sự tồn tại và phát triển ASEAN trong những năm sắp tới. Các thành viên ASEAN không có yêu sách đòi chủ quyền cần ủng hộ lập trường mà các nước ASEAN có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông (Việt Nam, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, Bru-nây) đã thống nhất với nhau, nhằm tạo đồng thuận trong đàm phán đa phương.
Đẩy mạnh“quốc tế hóa” tự do, an ninh hàng hải, hàng không trên Biển Đông
Trong bối cảnh hiện nay, ASEAN cần chủ động đưa ra các sáng kiến mới, tạo dựng các cơ chế, hình thức hợp tác hòa bình mới. Việc đảm bảo tự do, an toàn, an ninh hàng hải, hàng không cho tất cả các nước có lợi ích ở Biển Đông sẽ cho phép các quốc gia thành viên ASEAN thúc đẩy “quốc tế hóa” vấn đề này. Hiện nay, không ít quốc gia ngoài khu vực quan tâm đến tự do, an ninh hàng hải và hàng không. ASEAN cần chọn chủ đề “tự do an ninh hàng hải, hàng không” ở Biển Đông là khâu đột phá. Đây cũng là điều Trung Quốc lâu nay né tránh, nên rất ít khả năng Trung Quốc tham gia đàm phán. Bốn nước (Việt Nam, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, Bru-nây) nói riêng và khối ASEAN nói chung có thể mời các quốc gia có lợi ích liên quan đến an toàn hàng hải, hàng không ở khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a… tham gia đàm phán đa phương, tiến tới xây dựng một Thỏa thuận (hoặc Hiệp định) về đảm bảo an ninh hàng hải, hàng không ở Biển Đông. Thỏa thuận (hoặc Hiệp định) này để ngỏ (mở) cho tất cả các nước trong và ngoài khu vực tham gia. Điều đó sẽ tạo tiền lệ quan trọng, làm cho Trung Quốc không thể đứng bên lề các cuộc đàm phán cũng như điều ước quốc tế này nếu Trung Quốc nghiêm túc mong muốn giải quyết các tranh chấp. Như vậy, bằng cách đàm phán, ký điều ước quốc tế đa phương về các giải pháp đảm bảo tự do, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông, ASEAN và các nước Việt Nam, Phi-líp-pin, Ma-lai-xi-a, Bru-nây có thể tạo tiền đề, xác lập các điều khoản cho cuộc đàm phán đa phương tương lai với Trung Quốc.
Sẵn sàng giải quyết tranh chấp bằng công cụ pháp lý quốc tế
Trung Quốc luôn né tránh việc giải quyết vấn đề bằng luật pháp quốc tế, vì nước này chủ trương giải quyết tranh chấp Biển Đông theo con đường song phương, loại trừ việc tham gia của bất kỳ bên thứ ba nào khác. Đây là “điểm yếu” của Trung Quốc mà ASEAN cần triệt để khai thác.
Sử dụng công cụ pháp lý hiệu quả sẽ mở ra khả năng sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết tranh chấp, hoặc chí ít hạn chế các hành động gây hấn, các tuyên bố yêu sách vô lý không tuân thủ UNCLOS 1982. Do vậy, không chỉ “quốc tế hóa” vấn đề an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông, ASEAN (ít nhất là các nước có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông với Trung Quốc) không nên ngần ngại đưa tranh chấp ra Tòa án quốc tế về Luật Biển (ITLOS), Tòa án Công lý quốc tế (ICJ),[6] hoặc Tòa Trọng tài thường trực (PCA) theo Phụ lục VII của UNCLOS 1982 (tùy thái độ của Trung Quốc), bởi không ít vùng biển tranh chấp trên thế giới không phân định được qua đàm phán, cuối cùng phải nhờ đến phán quyết của Tòa án, từ đó mới có ổn định bền vững.
Thực tế cho thấy, sau khi đã tiến hành các biện pháp hòa bình khác với Trung Quốc không đạt kết quả, tháng 1/2013 Phi-líp-pin đã đi tiên phong trong việc cố gắng giải quyết tranh chấp một cách hòa bình bằng việc dựa vào luật pháp quốc tế, đơn phương kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài thường trực (PCA) theo Phụ lục VII của UNCLOS 1982. Đây là lựa chọn khôn khéo, vì thủ tục tài phán mang tính bắt buộc khi các bên không đạt được thỏa thuận. Ngay cả khi Trung Quốc tuyên bố không tham gia, điều này cũng không làm trì hoãn vụ kiện, Tòa trọng tài vẫn được thành lập và các thủ tục xét xử vẫn được tiếp tục. Trung Quốc không tham gia vụ kiện sẽ là bất lợi trong việc bảo đảm lợi ích của họ trên cơ sở luật pháp quốc tế trước Tòa. Về tính chất pháp lý, bản án của Tòa Trọng tài thường trực dựa trên quy định tại Điều 11 – Phụ lục VII của UNCLOS có tính chất tối hậu và không được quyền kháng cáo (trừ việc yêu cầu giải thích). Bản án của Tòa Trọng tài có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp.
Việc Phi-líp-pin kiện Trung Quốc ra PCA theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982 sẽ giúp một số thành viên ASEAN thêm kinh nghiệm đấu tranh giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Dẫu Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện thì thủ tục tố tụng vẫn được tiến hành và phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực (PCA)[7] sẽ là cơ sở pháp lý để các nước ASEAN yêu cầu Trung Quốc tiến hành giải quyết tranh chấp trên thực địa.
Cần tính đến một phương án là tất cả các nước đòi chủ quyền trên Biển Đông, có vùng biển bị Trung Quốc đưa vào phạm vi “đường 10 đoạn”, cùng kiện Trung Quốc ra các cơ quan tài phán quốc tế. Đó có thể là cách duy nhất các nước bị Trung Quốc đe dọa đáp trả hành vi của Trung Quốc bằng công cụ pháp lý.
Chủ động tạo dựng cơ chế đàm phán đa phương
Sau sự kiện HD-981 tháng 5/2014, lòng tin vào những “cam kết” của Trung Quốc đã suy giảm nghiêm trọng, vì vậy Việt Nam nói riêng và các nước ASEAN nói chung tiếp tục kiên trì, kiên quyết đòi đàm phán đa phương với Trung Quốc để giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên biển.
Nhưng trước khi đàm phán đa phương với Trung Quốc, các nước ASEAN có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông cần tiến hành đàm phán đa phương với nhau nhằm giải quyết tất cả các tranh chấp về các vùng biển, cần xác định rõ phạm vi chủ quyền và quy chế pháp lý đối với các vùng biển, thềm lục địa và các đảo ở quần đảo Trường Sa[8] để xác định phạm vi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi nước trên cơ sở UNCLOS 1982, cũng như thống nhất phương án đàm phán với Trung Quốc. Chắc chắn Trung Quốc sẽ phản đối đàm phán đa phương nội khối này, thậm chí gây thêm căng thẳng, phức tạp (chiếm một số đảo, bãi đá chìm, làm căn cứ quân sự trên đảo nhân tạo v.v…). Nhưng thành công của đàm phán đa phương giữa các nước ASEAN có tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông sẽ là minh chứng cho một cuộc đàm phán đa phương giải quyết các tranh chấp mà không có Trung Quốc tham gia. Qua đây, các nước ASEAN sẽ có vị thế tốt hơn, làm cơ sở để thiết lập các điều khoản cho đàm phán tập thể với Trung Quốc cũng như kéo Trung Quốc vào đàm phán đa phương sau này.
Tận dụng các diễn đàn quốc tế, các cơ chế an ninh khu vực
Sau sự kiện HD-981, Việt Nam đã tận dụng các Diễn đàn khu vực, quốc tế, kể cả đề nghị cho lưu hành công hàm tại Đại hội đồng LHQ tố cáo hành động của Trung Quốc. Trên cơ sở kinh nghiệm này, ASEAN nên có phương án sẵn sàng gửi đề nghị của ASEAN lên Tổng Thư ký LHQ nếu tình hình tiếp tục căng thẳng hoặc có những phát sinh phức tạp mới, thậm chí nghiên cứu phương án đưa ra Đại hội đồng LHQ, để cả thế giới thấy được hành vi vi phạm luật pháp quốc tế và Hiến chương LHQ của một nước lớn đang giữ vai trò quan trọng đối với hòa bình, an ninh thế giới.
Tại các diễn đàn An ninh khu vực (ARF), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Đối thoại Shangri-La…, nhiều tiếng nói ủng hộ lập trường “quốc tế hóa”, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình và tự do hàng hải tại Biển Đông.[9] ASEAN cần tiếp tục sử dụng các diễn đàn này để buộc các bên liên quan tìm kiếm giải pháp duy trì hòa bình, qua đó đẩy mạnh “quốc tế hóa” phương cách giải quyết tranh chấp; đẩy mạnh truyền thông về vấn đề Biển Đông theo hướng vì lợi ích của cộng đồng khu vực. Đây chính là sự kết hợp sức mạnh của thời đại với sức mạnh của Hiệp hội để giải quyết vấn đề liên quan tới lợi ích chiến lược của ASEAN.
Bên cạnh đó, ASEAN cần cùng Trung Quốc đàm phán, ký kết về COC sớm chừng nào hay chừng ấy. Chúng ta thiếu cơ sở để kỳ vọng vào sự nhiệm màu của COC, nhưng cần kiên trì đấu tranh tìm mọi giải pháp, dù là nhỏ nhất, giải quyết tranh chấp ở Biển Đông trước khi quá muộn.
Kết luận
Sự kiện HD-981 và những gì tiếp sau đó buộc các nước phải nhận thức rõ hơn chiến thuật của Trung Quốc hòng độc chiếm Biển Đông, cũng như cần có cách nhìn mới về quan hệ ASEAN – Trung Quốc. Giờ đây, ASEAN cần có những quyết sách và hành động hợp thời, hiệu quả, đồng thời kịp thời bổ sung, hoàn thiện cơ chế điều hành của Hiệp hội.
Việt Nam cần chủ động cùng một số thành viên chủ chốt phát huy vai trò trong ASEAN, đưa ra các sáng kiến củng cố đoàn kết, thống nhất nội khối, cũng như phối hợp thực hiện các bước đi đàm phán đa phương. Bên cạnh đó, Việt Nam kiên trì và kiên quyết phản đối yêu sách “đường 9 đoạn”, “đường 10 đoạn” của Trung Quốc, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, đòi Trung Quốc rút hết giàn khoan và các tàu khỏi vùng biển Việt Nam; giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, không để xảy ra xung đột; cũng như cảnh giác phòng ngừa các thế lực thù địch lợi dụng sự kiện này để kích động tinh thần dân tộc cực đoan, thậm chí có những hành động làm tổn hại lợi ích đất nước; đồng thời, cần chủ động hoàn chỉnh hồ sơ pháp lý về chủ quyền biển, đảo để bày tỏ quan điểm khi cần thiết; sẵn sàng tận dụng những lợi thế mà vụ kiện do Phi-líp-pin khởi xướng mang lại. Việt Nam cần rà soát kỹ càng các mối quan hệ với Trung Quốc, hạn chế phụ thuộc quá nhiều về kinh tế vào nước lớn này, đồng thời vận dụng linh hoạt tất cả các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp, đặc biệt tận dụng thế mạnh pháp lý và công luận để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng tại Biển Đông./.
Tác giả PGS. TS. Nguyễn Hồng Quân là Thiếu tướng, Phó Viện trưởng, Viện Chiến lược Quốc phòng – Bộ Quốc phòng. Những quan điểm nêu trong bài là của riêng tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của cơ quan nơi tác giả công tác. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 1 (100), tháng 3/2015.
———————
1 Trung Quốc viện trợ cho Phi-líp-pin 1,8 tỷ USD để đổi lấy việc nước này tham gia khảo sát địa chấn ba bên ở Trường Sa, sau đó Phi-líp-pin đã đơn phương ngừng tham gia khảo sát và thỏa thuận ba bên hết hiệu lực. Trung Quốc đã phần nào thành công khi lôi kéo được một số nước như Lào, Cam-pu-chia, Mi-an-ma, Thái Lan không ủng hộ nêu vấn đề Biển Đông trong các cuộc họp của ASEAN vì sợ ảnh hưởng đến quan hệ với Trung Quốc hoặc có phản ứng yếu ớt, chậm chạp, không rõ ràng… trước những vụ việc như sự kiện HD-981.
[1] Nội dung DOC có 7 điểm, trong đó nổi bật là các bên cam kết thực hiện Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982), giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tình hình.
[2] Tấm bản đồ này xuất bản từ tháng 3/2013 và đang được phân phối cho các trường tiểu học và trung học của Trung Quốc.
[3] Trung Quốc tích cực đầu tư xây dựng, quản lý khai thác các cảng nước sâu và kết nối tuyến đường ống dẫn dầu tới cảng biển tại nhiều nước thuộc Ấn Độ Dương (cảng Bagamoyo ở Tan-da-ni-a, cảng Gwadar ở Pa-ki-xtan, cảng Sittwe của Mi-an-ma) nhằm phục vụ mục tiêu trở thành “cường quốc biển”.
[4] Dẫn theo Tạp chí Janes Defence (Anh), ra ngày 25/6/2014.
[5] Đó là cơ chế điều phối, tham vấn giữa Chủ tịch ASEAN đương nhiệm với Chủ tịch ASEAN năm trước và Chủ tịch ASEAN năm liền kề sau đó.
[6] Việc thành lập thiết chế tài phán Tòa án quốc tế về Luật biển (ITLOS) hay Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) đòi hỏi các bên liên quan đồng ý chấp nhận thẩm quyền xét xử của Tòa. Trong khi đó, thủ tục Tòa thường trực Trọng tài (PCA) được thành lập theo Phụ lục VII UNCLOS là một thiết chế tài phán mang tính bắt buộc khi các bên không đạt được thỏa thuận.
[7] Ngày 3/6/2014, Tòa Trọng tài quốc tế đã ra tuyên bố yêu cầu Trung Quốc trong vòng sáu tháng, cung cấp các luận cứ và bằng chứng để biện hộ cho các đòi hỏi về chủ quyền ở Biển Đông, cho dù Trung Quốc đã từ chối tham gia vụ kiện mà Phi-líp-pin đã khởi xướng từ năm 2013. Mặt khác, Tòa trọng tài cũng nêu khả năng tiếp tục nghe Phi-líp-pin trình bày luận cứ của mình, cho dù Trung Quốc không tham gia và xác định các bước tiếp theo, sau khi tham khảo ý kiến các bên liên quan.
[8] Các nước này cần đạt được thoả thuận tiến hành đo đạc chung, đảo nào có thể được coi là có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, đảo nào chỉ là một bãi đá, không thể duy trì sự sống. Trên thực tế, có hơn 120 đảo chỉ được coi là bãi đá, phạm vi lãnh hải của nó không vượt quá 12 hải lý.
[9] Tại ARF lần thứ 16 (năm 2009), chưa đầy một nửa số thành viên tham gia ủng hộ lập trường “quốc tế hóa” và “tự do hàng hải” ở Biển Đông, nhưng đến ARF lần thứ 17 và 18, con số đó đã quá bán. Tại ARF lần thứ 19 (năm 2012) đã có tới 25 nước trong tổng số 28 nước tham gia đã đề cập vấn đề Biển Đông trong phát biểu của mình.
Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]