Tại sao Big Tech không nên được trao quyền kiểm duyệt tự do ngôn luận?

Print Friendly, PDF & Email

Nguồn:Big tech and censorship”, The Economist, 16/01/2021.

Biên dịch: Phan Nguyên

Phản ứng đầu tiên của nhiều người là một sự nhẹ nhõm. Vào ngày 6 tháng 1, khi còn 14 ngày nữa là kết thúc nhiệm kỳ, vị tổng thống mạng xã hội đã bị Twitter khóa tài khoản sau nhiều năm lạm dụng, dối trá với công chúng. Ngay sau đó, nhiều người thân tín và những người ủng hộ Trump cũng bị Thung lũng Silicon loại khỏi thế giới online. Sự chấm dứt “bản giao hưởng” của họ thật đáng mừng. Nhưng ẩn sau sự bình yên đó là một sự hạn chế quyền tự do ngôn luận đang làm lạnh sống lưng người Mỹ — cũng như tất cả các nền dân chủ.

Các lệnh cấm sau khi người biểu tình đột nhập Điện Capitol có phần hỗn loạn. Vào ngày 7 tháng 1, Facebook đã ban hành lệnh khóa “vô thời hạn” tài khoản của Donald Trump. Twitter theo sau với lệnh cấm vĩnh viễn một ngày sau đó. Snapchat và YouTube cũng đã cấm ông. Một loạt các tài khoản khác đã bị treo. Google và Apple đã loại Parler, một mạng xã hội nhỏ phổ biến với giới cực hữu, khỏi các cửa hàng ứng dụng của họ, và Amazon đã loại Parler khỏi dịch vụ đám mây của mình, buộc nó phải ngừng dịch vụ hoàn toàn.

Điều này có chắc chắn là có thể chấp nhận được khi đối mặt với một đám đông đang hung hãn? Về mặt pháp lý, các công ty tư nhân có thể làm những gì họ muốn. Tuy nhiên, một số quyết định thiếu nhất quán hoặc không tương xứng về mức độ. Mặc dù Twitter đã trích dẫn “nguy cơ kích động bạo lực hơn nữa” của ông Trump, nhưng các dòng tweet mà họ chỉ ra không vượt quá giới hạn pháp lý chung xác định hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận theo hiến pháp. Trong khi đó Ayatollah Ali Khamenei vẫn ở trên Twitter và những lời dọa giết vẫn rất dễ dàng tìm thấy trên mạng. Các công ty lẽ ra phải tập trung vào các bài đăng cụ thể mang tính kích động. Thay vào đó, họ đã cấm người dùng, bao gồm cả tổng thống, đẩy những tiếng nói ngoài lề ra xa khỏi dòng chính. Trong một số trường hợp, hành động là cần thiết, như với các trao đổi mang tính bạo lực và được kiểm soát kém trên Parler, nhưng nhìn chung không có ranh giới rõ ràng về việc khi nào quyền ngôn luận nên bị cấm. Cơ sở hạ tầng của Internet, bao gồm cả các dịch vụ điện toán đám mây, vốn nên mang tính trung lập, nay có nguy cơ bị lôi kéo vào các cuộc chiến chia rẽ giữa các đảng phái.

Vấn đề nữa là ai được quyền đưa ra quyết định. Sự tập trung của ngành công nghệ có nghĩa là một số giám đốc điều hành không phải do dân cử và không chịu trách nhiệm giải trình nắm quyền kiểm soát. Có lẽ mục đích của họ thực sự là bảo vệ nền dân chủ, nhưng họ cũng có thể có những động cơ khác, ít cao cả hơn. Một số đảng viên Đảng Dân chủ đã cổ vũ các công ty công nghệ, nhưng họ nên đánh giá bất kỳ chế độ ngôn luận mới nào dựa trên phạm vi ứng dụng rộng rãi hơn của nó. Nếu không, một hành động khiến kẻ thù của họ phải im lặng vào tuần trước có thể trở thành tiền lệ khiến họ bị bịt miệng trong tương lai. Những lời chỉ trích nói lên nhiều điều. Angela Merkel, nhà lãnh đạo của Đức, nói rằng các công ty tư nhân không nên xác định các quy tắc ngôn luận. Alexei Navalny, một nhà bất đồng chính kiến ​​người Nga, đã chỉ trích một “hành động kiểm duyệt không thể chấp nhận được”. Ngay cả Jack Dorsey, Giám đốc điều hành của Twitter, cũng gọi đó là một “tiền lệ nguy hiểm”.

Có một cách tốt hơn để giải quyết vấn đề quyền ngôn luận trực tuyến. Làm cho ngành công nghiệp trở nên cạnh tranh hơn sẽ có ích bởi điều này làm loãng tầm ảnh hưởng của các công ty riêng lẻ và kích thích các mô hình kinh doanh mới không dựa vào tính lan truyền. Nhưng nếu ngành công nghiệp vẫn mang tính độc quyền, cần có một cách tiếp cận khác. Bước đầu tiên là xác định một tiêu chí về những gì nên được kiểm duyệt. Ở Mỹ, điều đó nên được dựa trên sự bảo vệ của hiến pháp về tự do ngôn luận. Nếu các công ty muốn tiến xa hơn bằng cách đính kèm các cảnh báo hoặc giới hạn các nội dung pháp lý thì họ cần phải minh bạch và có thể dự đoán được. Các quyết định khó nên thuộc về các hội đồng độc lập, cho phép mọi người có quyền kháng cáo.

Hơn 80% người dùng Twitter và Facebook sống bên ngoài nước Mỹ. Ở hầu hết các quốc gia, các công ty công nghệ phải tuân thủ luật pháp địa phương về ngôn luận — chẳng hạn như các quy tắc của Đức về các phát ngôn kích động hận thù. Ở các chế độ chuyên chế, như Belarus, họ nên mặc định tuân theo các tiêu chuẩn mà họ áp dụng ở Mỹ. Một lần nữa, các đánh giá về tiêu chuẩn nào nên được áp dụng ở quốc gia nào có thể được định hướng bởi các cơ quan quản lý truyền thông. Điều này có thể gây hại cho các công ty Mỹ ở nhiều nơi hơn: tuần này Uganda đã cấm Facebook và Twitter trước một cuộc bầu cử gây tranh cãi.

Nước Mỹ cần giải quyết cuộc khủng hoảng hiến pháp thông qua một quy trình chính trị, chứ không phải kiểm duyệt. Và thế giới phải tìm kiếm một cách tốt hơn để xử lý vấn đề quyền phát ngôn trực tuyến hơn là cho phép các tổ chức độc quyền công nghệ kiểm soát các quyền tự do cơ bản.