Mỹ chưa hiểu về đảng tịch của đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc

Nguồn: James Palmer, “What Washington Doesn’t Understand About CCP Membership”, Foreign Policy, 10/06/2025

Biên dịch: Tạ Kiều Trang

Dựa trên mối liên hệ của sinh viên với đảng mà nhắm đến họ, nhìn chung là một sai lầm.

Tiêu điểm tuần này: Chính quyền Trump đảo ngược chính sách thị thực cho sinh viên Trung Quốc; Đàm phán thương mại Mỹ – Trung được nối lại ở London; Một thẩm phán Bắc Kinh biển thủ công quỹ.

Washington bị ám ảnh bởi vấn đề đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc

Trong những tuần gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump và chính quyền của ông liên tục thay đổi quan điểm về việc hạn chế thị thực cho sinh viên Trung Quốc. Ngày 28/5, Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio tuyên bố sẽ “tích cực thu hồi” các thị thực này, nhất là đối với những sinh viên có liên hệ với Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).

Nhưng sau cuộc điện đàm với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tuần trước, Tổng thống Mỹ tuyên bố: “Sinh viên Trung Quốc sắp đến đây – không thành vấn đề. Thành thật mà nói, thật vinh hạnh cho chúng ta khi họ ở đây”.

Tạm gác lại những điểm mâu thuẫn vừa nói trên, thì việc nhắm đến những cá nhân có liên hệ với ĐCSTQ có một vấn đề cốt lõi như sau: Việc là một đảng viên không nhất thiết phản ánh hệ tư tưởng, và đồng thời, nhóm người nhập cư mà chính quyền Mỹ ưu tiên – nhóm người học thức, giàu có và đang trên con đường nhập tịch hợp pháp – lại thường có khả năng cao là đảng viên ĐCSTQ hơn là các nhóm khác.

Với những thành phần thuộc phong trào cực hữu ở Mỹ – những người ngày càng lộ rõ mong muốn ngăn cản người da màu nhập cảnh vào đất nước, hoặc muốn gieo rắc nỗi khiếp sợ về “nội gián xã hội chủ nghĩa”, sự phân biệt đó có lẽ không quan trọng; Nhưng sự phân biệt đó cần được coi trọng, nếu Mỹ muốn có một chính sách, trong đó xem ĐCSTQ như một đối thủ đích thực, mà không khiến những người vô tội bị vạ lây.

Việc Washington hiểu sai về đảng tịch của đảng viên ĐCSTQ đã diễn ra từ lâu nay. Hãy lấy ví dụ về Yang Jianli – một người nhập cư Trung Quốc tại Mỹ, một nhà bất đồng chính kiến lâu năm và là cộng tác viên của trang Foreign Policy. Khi đang theo học tiến sĩ tại Đại học California, Berkeley, Yang đã quay lại Bắc Kinh để tham gia cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn vào năm 1989. Sau đó, ông được cấp quy chế tị nạn ở Mỹ.

Vào năm 2002, khi Yang trở về Trung Quốc để theo dõi tình trạng bất ổn trong giới lao động, ông bị bắt và bỏ tù suốt năm năm. Trong thời gian đó, giới làm luật tại Washington nhiều lần gây áp lực đòi Trung Quốc trả tự do cho ông. Dù Yang là một người chống đối ĐCSTQ với một lý lịch không ai có thể chối cãi, nhưng vào năm 2020, ông vẫn bị từ chối nhập quốc tịch Mỹ, chỉ vì có một thời gian trong quá khứ từng là đảng viên ĐCSTQ.

Yang chia sẻ với tôi qua email: “Tôi đã tự nguyện khai báo về quá khứ từng là đảng viên trong buổi phỏng vấn nhập tịch. Tôi còn… nộp bằng chứng về việc bị khai trừ Đảng sau sự kiện Thảm sát Thiên An Môn và kèm theo các tờ khai có tuyên thệ giải thích lý do vì sao nhiều trí thức trẻ như tôi từng gia nhập Đảng, nhưng sau này buộc phải ghi “không” trên mẫu đơn thị thực”.

Dù vậy, đơn xin vẫn bị từ chối. Tôi kiện Bộ An ninh Nội địa và cuối cùng cũng đi đến được một thỏa thuận,” ông viết.

Sự nghi kỵ của nước Mỹ đối với làn sóng người nhập cư theo chủ nghĩa cộng sản hoặc vô chính phủ bắt nguồn từ thời kỳ “Nỗi sợ cộng sản” (Red Scare) đầu tiên vào thập niên 1920, nhưng đến thời McCarthy mới được đưa vào luật pháp Mỹ một cách hoàn chỉnh, thông qua việc ban hành Đạo luật An ninh Nội địa năm 1950. Lệnh cấm của đạo luật này đối với các đảng phái bị xem là “toàn trị” đến nay vẫn còn hiện diện trong chính sách nhập cư Mỹ.

Luật có ngoại lệ cho các trường hợp không còn là đảng viên (sau năm năm), những người vào đảng trước 16 tuổi, hoặc những người buộc phải gia nhập đảng vì hoàn cảnh sống còn. Nhưng trường hợp của Yang cho thấy, ngay cả những ứng viên đáp ứng rõ các tiêu chí trên vẫn có thể gặp rắc rối.

Chính sách này xuất hiện vào thời điểm mà phần lớn các nhà hoạch định chính sách Mỹ đều tin rằng, chủ nghĩa cộng sản là một hiểm hoạ mang tính huỷ diệt, đe doạ phá hoại các xã hội tự do từ bên trong. Dù bị cường điệu, nhưng ít ra nỗi sợ này cũng dựa trên một vài cơ sở đến từ việc Liên Xô từng hỗ trợ chủ nghĩa cộng sản ở Angola, Cuba, Việt Nam và nhiều nơi khác.

Dưới thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc cũng theo đuổi một chiến lược tương tự – nhiều lúc còn tranh giành cả ảnh hưởng với Liên Xô, điển hình là ở Albania và Tanzania. Nhưng đến thập niên 1980, ĐCSTQ đã gần như từ bỏ đường lối này.

Ngày nay, các đảng viên ĐCSTQ ở Mỹ không còn thành lập các chi bộ cách mạng hay mưu đồ cùng những người cộng sản Mỹ. Họ có xu hướng khởi nghiệp hoặc theo đuổi con đường học vấn. Một phần là do việc gia nhập đảng vốn được định đoạt bằng các mối quan hệ gia đình và tham vọng cá nhân hoặc tham vọng nghề nghiệp, chứ không còn bởi lòng nhiệt thành vì lí tưởng.

Để gia nhập ĐCSTQ đòi hỏi phải nắm vững tư tưởng cộng sản và tham gia sinh hoạt đảng, song nhiều người lại xem nhiệm vụ này như một nghĩa vụ nhàm chán, thay vì xem chúng là lời mời gọi hành động cách mạng. Thực ra, việc ủng hộ giai cấp công nhân theo nền tảng chủ nghĩa Marx có thể khiến bạn bị bắt – như trường hợp những sinh viên của Đại học Nhân dân tinh hoa ở Bắc Kinh vào năm 2018.

Vậy tại sao Mỹ lại xem đảng tịch của đảng viên ĐCSTQ là một mối đe dọa an ninh?

Một mối lo ngại là các đảng viên sẽ thành lập chi bộ đảng tại Mỹ, điều này từng xảy ra ở một số trường đại học. Tuy nhiên, Bắc Kinh sử dụng tuyên truyền, cưỡng chế và giám sát đối với toàn bộ cộng đồng người Hoa hải ngoại, những trường hợp nhắm vào người Hoa ở nước ngoài riêng vì lý do đảng tịch là rất hiếm. Một sinh viên, có hay không có thẻ đảng, đều dễ bị gây sức ép như nhau.

Và quan trọng hơn cả, do thiên lệch trong tuyển chọn, các thành viên ĐCSTQ thường có trình độ học vấn cao hơn, và do đó, quyết định ở lại Mỹ của họ sẽ là một bàn thắng cho Washington trong cuộc đua ngày càng gay gắt để giành lấy nhân tài toàn cầu. Rốt cuộc, ĐCSTQ là đảng của những người cầu tiến có liên hệ với nhau, không phải của những người âm mưu làm cách mạng.

Tin tức được quan tâm

Đàm phán thương mại. Các nhà đàm phán Mỹ và Trung Quốc đang họp tại London trong tuần này để tìm kiếm một thỏa thuận thương mại. Cuộc họp diễn ra sau khi căng thẳng gia tăng trở lại, do hai bên cáo buộc lẫn nhau rằng bên kia không thực hiện đúng cam kết liên quan đến lệnh ngừng áp thuế tạm thời.

Sau cuộc điện đàm thân mật giữa ông Trump và ông Tập vào ngày 5/6, tiến trình đàm phán có vẻ suôn sẻ. Tuy nhiên, phía Mỹ dường như đang có đôi chút hoang mang: Trump được cho là đã cho phép các nhà đàm phán gỡ bỏ một số lệnh trừng phạt của Mỹ đối với chip và các mặt hàng xuất khẩu khác. Có thể Trump đang sốt ruột muốn đạt được một thỏa thuận, sau khi các biện pháp hạn chế xuất khẩu đất hiếm gần đây của Trung Quốc đã phơi bày những điểm yếu trong chuỗi cung ứng quân sự của Mỹ.

Tuy nhiên, bất kỳ thỏa thuận nào đạt được cũng có khả năng không bền, vì chúng còn phụ thuộc vào ý thích nhất thời của tổng thống, và cả thói quen nói nhiều nhưng lại hay rút lui vào phút chót của ông Trump. Thông thường, các cuộc đàm phán thương mại kéo dài từ vài tháng đến vài năm, mà điều này không phù hợp với một Nhà Trắng luôn bị ám ảnh bởi chu kỳ tin tức tức thời. Tôi sẽ tiếp nhận mọi thông tin từ cuộc đàm phán lần này, nhưng sẽ không vội tin chúng.

Một vụ “cuỗm tiền” của toà án. Một thẩm phán ở Bắc Kinh, tên là Bạch Bân (Bai Bin), được cho là đã đào tẩu cùng với số tiền khoảng 18 đến 41 triệu USD, có vẻ là biển thủ từ tiền phạt của tòa án và lệ phí xét xử. Cơ quan chức năng phát hiện vụ việc sau khi bạn gái của Bạch khoe với bạn bè về việc anh này đã có quốc tịch Hy Lạp – quốc gia có hiệp ước dẫn độ ở cấp độ hạn chế với Trung Quốc từ năm 2019.

Tham nhũng trong hệ thống tòa án Trung Quốc rất phổ biến, nhưng thường diễn ra dưới hình thức nhận hối lộ hơn là biển thủ công quỹ. Các cải cách nhằm nâng cao hiệu suất làm việc diễn ra vào cuối những năm 2010, trong đó cho phép chỉ một người duy nhất có thể phê duyệt việc chuyển tiền của tòa án, có thể đã tạo điều kiện cho vị thẩm phán trẻ này thực hiện vụ biển thủ. Bạch hiện vẫn đang lẩn trốn, nhưng vụ “cuỗm tiền” này có thể sẽ dẫn đến một đợt trấn áp toàn diện hơn trong ngành tòa án và siết chặt kiểm soát các khoản tiền phạt.

Công nghệ và Kinh doanh

Lệnh cấm TikTok. Cựu Tổng thống Trump tiếp tục phớt lờ đạo luật năm 2024, trong đó yêu cầu ByteDance – công ty mẹ của TikTok – phải thoái vốn, nếu không ứng dụng này sẽ đối mặt với lệnh cấm trên toàn nước Mỹ. Vào tuần trước, các nguồn tin tiết lộ Trump đang lên kế hoạch gia hạn việc trì hoãn thực thi lệnh cấm lần thứ ba, dù có thể trái với luật, trong lúc tìm kiếm một đơn vị mua lại TikTok ở Mỹ có thiện cảm với chính quyền của mình.

Tuy nhiên, bất kỳ đơn vị mua lại nào cũng sẽ gặp khó khăn trong việc vượt qua rào cản do Bắc Kinh không sẵn lòng đặt một tài sản quan trọng vào tay nước ngoài, nhất là khi quan hệ Mỹ – Trung vẫn còn nhiều bất ổn.

Xuất khẩu sụt giảm. Dù thương chiến đang leo thang với Mỹ được tạm ngừng, nhưng tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc trong tháng 5 vẫn giảm mạnh hơn dự kiến, chỉ đạt 4,8% tính theo USD, giảm từ mức 8,1% của tháng 4.

Nguyên nhân chủ yếu do kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ giảm tới 34,6% so với tháng 5/2024. Tuy nhiên, việc chuyển hướng hàng hóa sang các thị trường khác vẫn giúp duy trì được mức tăng trưởng tổng thể.