Tại sao Israel không thể trở thành một bá quyền ở Trung Đông?

Nguồn: Stephen M. Walt, “Israel Can’t Be a Hegemon”, Foreign Policy,  16/06/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Cuộc tấn công sâu rộng của Israel vào Iran là động thái mới nhất trong chiến dịch loại bỏ hoặc làm suy yếu từng đối thủ trong khu vực của nước này. Sau cuộc tấn công của Hamas vào tháng 10 năm 2023, Israel đã tiến hành một chiến dịch tàn bạo nhằm xóa sổ người dân Palestine khỏi vai trò là một lực lượng chính trị có ảnh hưởng, một nỗ lực đã bị nhiều tổ chức nhân quyền hàng đầu và các chuyên gia học thuật mô tả là hành động diệt chủng. Israel đã làm suy yếu ban lãnh đạo Hezbollah ở Lebanon thông qua các cuộc không kích, điện thoại cài bom và các phương tiện khác. Nước này đã tấn công lực lượng Houthi ở Yemen và ném bom Syria hậu Assad để phá hủy các kho vũ khí và ngăn chặn các lực lượng mà Israel coi là nguy hiểm thực hiện ảnh hưởng chính trị ở đó. Và các cuộc tấn công gần đây nhất vào Iran nhằm mục đích không chỉ gây thiệt hại hoặc phá hủy cơ sở hạ tầng hạt nhân của quốc gia đó. Tối thiểu, Israel muốn chấm dứt các cuộc đàm phán về chương trình hạt nhân của Iran; làm tê liệt khả năng phản ứng của Iran bằng cách giết chết các nhà lãnh đạo hàng đầu, quan chức quân sự, nhà ngoại giao và nhà khoa học của Iran; và, nếu có thể, lôi kéo Mỹ sâu hơn vào cuộc chiến. Tối đa, Israel hy vọng sẽ làm suy yếu chế độ đến mức sụp đổ.

Cho rằng mỗi hành động này đã thành công một phần—ít nhất là trong ngắn hạn—liệu chúng ta có nên coi Israel là một bá quyền khu vực hay không? Nếu một quốc gia bá quyền được định nghĩa là “cường quốc duy nhất trong một khu vực cụ thể”, sao cho “không có quốc gia nào khác (hoặc liên minh các quốc gia) có thể tạo ra một cuộc phòng thủ nghiêm túc trong một cuộc thử nghiệm sức mạnh quân sự toàn diện”, liệu Israel có đủ điều kiện trở thành bá quyền không? Nếu vậy, liệu chúng ta có nên mong đợi các nước láng giềng của Israel cũng hành động như những nước khác khi đối mặt với một bá quyền: “công nhận sức mạnh vượt trội của nó và nhượng bộ nó trong các vấn đề lợi ích sống còn đối với bá quyền?”

Thoạt nhìn, khả năng này có vẻ xa vời. Làm thế nào một quốc gia với chưa đầy 10 triệu dân (chỉ khoảng 75% trong số đó là người Do Thái) có thể thống trị một khu vực rộng lớn có đến vài trăm triệu người Ả Rập chủ yếu theo đạo Hồi, cộng thêm hơn 90 triệu người Ba Tư?

Tuy nhiên, ý tưởng này có vẻ hợp lý hơn khi xét đến việc Israel có nhiều lợi thế hơn so với các nước láng giềng. Công dân của nước này được giáo dục tốt hơn, có tinh thần yêu nước cao và thường được dẫn dắt bởi những nhà lãnh đạo hiệu quả hơn so với các lãnh đạo Ả Rập. Israel nhận được sự hỗ trợ hào phóng và kiên định từ một cộng đồng người Do Thái hải ngoại giàu có và có ảnh hưởng chính trị, và trong quá khứ đã nhận được sự hỗ trợ vô giá từ các cường quốc lớn như Anh và Pháp. Hầu hết các đối thủ Ả Rập của Israel đã phải đối mặt với nhiều cuộc chia rẽ nội bộ, biến động hoặc đảo chính, và họ đã bị chia rẽ bởi các mối thù địch giữa các quốc gia Ả Rập.

Hơn nữa, vì sức mạnh quân sự hiện đại phụ thuộc nhiều hơn vào sự thành thạo công nghệ, huấn luyện và chỉ huy khéo léo hơn là số lượng đơn thuần, Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) luôn có khả năng vượt xa các lực lượng mà họ đã chiến đấu chống lại. Lợi thế đó đã tăng lên khi chiến tranh ngày càng phụ thuộc vào vũ khí đắt tiền và tinh vi. Mặc dù cả Hezbollah và Hamas đều trở nên mạnh hơn theo thời gian, nhưng không bên nào có khả năng đe dọa sự tồn vong của Israel hoặc gây ra mức độ thiệt hại tương đương cho Israel. Kho vũ khí hạt nhân lớn và khả năng tình báo đáng gờm của Israel càng củng cố vị thế của nước này.

Quan trọng nhất, Israel nhận được sự hỗ trợ to lớn và phần lớn vô điều kiện từ Mỹ, chính phủ Mỹ ủng hộ Israel bất kể nước này làm gì và cam kết chính thức duy trì “lợi thế quân sự vượt trội về chất lượng” của Israel. Nếu không có sự hỗ trợ đó, khoảng 10 triệu người Israel sẽ có thể bảo vệ lãnh thổ của mình – hãy nhớ rằng, họ có vũ khí hạt nhân – nhưng ít có cơ hội thống trị khu vực xung quanh.

Với tất cả những điều trên, ý tưởng Israel thống trị Trung Đông rộng lớn không phải là quá phi lý. Tuy nhiên, sẽ là một sai lầm nếu coi Israel là một bá quyền khu vực thực sự.

Đầu tiên, một bá quyền khu vực là quốc gia có sức mạnh tương đối lớn so với các nước láng giềng đến mức không còn phải đối mặt với bất kỳ mối đe dọa an ninh đáng kể nào từ họ và thậm chí không phải lo lắng rằng một đối thủ thực sự sẽ xuất hiện trong thời gian tới. Đó là vị thế mà Mỹ đã đạt được vào đầu thế kỷ 20: Các cường quốc khác đã rút khỏi Tây Bán cầu và không có quốc gia hoặc liên minh nào trong khu vực có thể sánh được với sự kết hợp giữa sức mạnh kinh tế và tiềm năng quân sự của Mỹ. Ngoại trừ một thời gian ngắn trong Khủng hoảng tên lửa Cuba – khi một cường quốc bên ngoài (Liên Xô) triển khai tên lửa hạt nhân vào Tây bán cầu – Mỹ chưa từng đối mặt với một thách thức quân sự đáng kể nào từ bên trong bán cầu kể từ cuối thế kỷ 19. Vị trí đặc quyền này đã cho phép Washington tập trung các chính sách đối ngoại và quốc phòng của mình vào khu vực Á-Âu, với mục đích ngăn chặn bất kỳ cường quốc nào khác đạt được vị trí tương tự trong bất kỳ khu vực chiến lược quan trọng nào.

Israel ngày nay không đạt được tiêu chuẩn đó. Ví dụ, lực lượng Houthi vẫn chưa khuất phục, và IDF vẫn sa lầy ở Gaza mặc dù đã gây ra sự hủy diệt lớn cho cư dân của khu vực này. Israel đã làm suy yếu đáng kể Hezbollah và Hamas, nhưng đây là những tác nhân phi nhà nước và cả hai đều chưa bao giờ đặt ra mối đe dọa hiện hữu đối với sự tồn tại của Israel. Không có quốc gia Ả Rập hoặc liên minh nào có thể sánh được với Israel ngày nay, nhưng cả Thổ Nhĩ Kỳ và Iran đều có lực lượng quân sự đáng kể và dân số lớn hơn nhiều, và mỗi nước có thể tạo ra hệ thống phòng thủ đáng tin cậy trong trường hợp chiến tranh toàn diện, ngay cả khi cuối cùng họ sẽ thua, điều này có nghĩa là Israel không thể loại bỏ các nước này khỏi các tính toán của mình hoặc cho rằng các quốc gia này sẽ nhượng bộ Israel. Sự kháng cự không ngừng của Iran làm rõ điều đó: Cuộc trả đũa của họ cho các cuộc tấn công gần đây vẫn chưa sánh được với những thiệt hại họ phải chịu nhưng không hề nhỏ, và cuộc xung đột vẫn chưa kết thúc. Không có dấu hiệu nào cho thấy Tehran sẽ tự nguyện chấp nhận hy sinh lợi ích của mình cho Israel, ngay cả khi họ có thể thất bại trong cuộc đối đầu gần đây nhất. Chỉ vì lý do đó, Israel không phải là một bá quyền khu vực.

Hơn nữa, toàn bộ lý do biện minh cho các cuộc tấn công gần đây nhất này là nỗi sợ rằng Iran một ngày nào đó có thể sở hữu vũ khí hạt nhân. Rủi ro không phải là Iran sẽ sử dụng bom hạt nhân để tấn công Israel – điều đó sẽ là tự sát – mà là một quả bom của Iran sẽ hạn chế khả năng của Israel trong việc sử dụng vũ lực trong khu vực mà không bị trừng phạt. Việc các nhà lãnh đạo Israel coi khả năng phải hành động kiềm chế hơn là một mối nguy hiểm cho thấy họ không có loại “an ninh tự do” mà Mỹ – bá quyền khu vực thực sự duy nhất trên thế giới – đã được hưởng từ lâu.

Những thành công gần đây của Israel trên chiến trường cũng không giải quyết được vấn đề cơ bản hơn của người Palestine, những người chiếm khoảng một nửa dân số trong các vùng đất mà Israel kiểm soát. Khả năng quân sự và tình báo vượt trội của Israel đã không ngăn Hamas giết hàng trăm người Israel vào tháng 10 năm 2023, và việc Israel giết hơn 55.000 người Palestine để đáp trả đã không đưa nước này đến gần hơn với một giải pháp chính trị cho cuộc xung đột này. Thay vào đó, nó đã làm tổn hại đáng kể hình ảnh toàn cầu của Israel và làm suy yếu sự ủng hộ ngay cả trong số các đồng minh lâu năm.

Quan trọng nhất, Israel vẫn phụ thuộc nghiêm trọng vào người bảo trợ Mỹ của mình, quốc gia cung cấp hầu hết máy bay, bom và tên lửa mà nước này cần để tấn công các nước láng giềng cùng với sự bảo vệ về mặt ngoại giao liên tục. Một bá quyền khu vực thực sự không phải dựa vào người khác để thống trị khu vực lân cận của mình, nhưng Israel thì có. Sự hỗ trợ của Mỹ đã vững chắc trong nhiều thập kỷ, do ảnh hưởng của một nhóm lợi ích trong nước mạnh mẽ, nhưng mối quan hệ này đã có dấu hiệu căng thẳng trong những năm gần đây và có khả năng sẽ khó duy trì hơn khi vị thế sức mạnh của Mỹ suy yếu. Và nếu vòng giao tranh gần đây nhất cuối cùng lôi kéo Mỹ vào, nhiều người Mỹ hơn – bao gồm cả những người MAGA trung thành, những người nghĩ rằng Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ giữ đất nước trong hòa bình – sẽ nhận ra cái giá quá đắt mà người Mỹ phải trả cho “mối quan hệ đặc biệt” này.

Cuối cùng, bá quyền khu vực bền vững đòi hỏi các quốc gia láng giềng phải chấp nhận (và trong một số trường hợp hoan nghênh) vị thế thống trị của bá quyền. Nếu không, bá quyền sẽ liên tục lo lắng về sự phản đối mới và buộc phải thực hiện các hành động lặp đi lặp lại để ngăn chặn nó xuất hiện. Để làm cho vị thế đặc quyền của mình được người khác chấp nhận, một bá quyền bền vững phải hành động với một mức độ khoan dung, như cựu Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã làm bằng cách áp dụng chính sách “Láng giềng tốt” của mình đối với Mỹ Latinh. Điều đáng lưu ý là những bá quyền khu vực tiềm năng như Pháp của Napoléon, Đức Quốc xã hay Đế quốc Nhật Bản đã đạt được vị thế thống trị tạm thời, nhưng họ không thể củng cố những thành quả ban đầu của mình và cuối cùng đã khuất phục trước các liên minh đối lập mạnh hơn.

Tuy nhiên, đối xử với các nước láng giềng bằng sự khoan dung chưa bao giờ là sở trường của Israel, và ảnh hưởng ngày càng tăng của các lực lượng cánh hữu và những kẻ cực đoan tôn giáo ở nước này càng làm điều đó ít có khả năng xảy ra hơn. Tập hợp tất cả những điều này lại, Israel còn lâu mới trở thành một bá quyền khu vực. Tôi không nghi ngờ việc các nhà lãnh đạo của nước này có thể muốn đạt được vị thế đó – tại sao không – nhưng nó sẽ mãi mãi nằm ngoài tầm với của họ. Và điều đó có nghĩa là an ninh lâu dài cho nhà nước Israel cuối cùng phụ thuộc vào việc đạt được một thỏa thuận chính trị lâu dài với các nước láng giềng, bao gồm cả người Palestine. Đây lại là một lời nhắc nhở khác rằng chính trị, chứ không chỉ sức mạnh, mới là thứ mà an ninh lâu dài cuối cùng phụ thuộc vào.

Stephen M. Walt là chuyên gia phân tích tại Foreign Policy và Giáo sư quan hệ quốc tế tại Đại học Harvard.

Tìm hiểu Israel và dân tộc Do Thái