Nguồn: Jim Ellis và Steven Chu, “Taiwan’s Achilles’ Heel”, Foreign Affairs, 30/07/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
Vào tháng 5, Đài Loan đã đóng cửa lò phản ứng hạt nhân cuối cùng của mình, hoàn thành quá trình phi hạt nhân hóa đã diễn ra trong hơn bốn thập kỷ. Giữa những năm 1980, hòn đảo này tạo ra một nửa năng lượng điện từ năng lượng hạt nhân, một dự án được thực hiện bởi nhà độc tài Tưởng Giới Thạch để đối phó với cú sốc dầu mỏ những năm 1970. Nhưng một khi chế độ quân sự kết thúc vào năm 1987, quan điểm phản đối hạt nhân bắt đầu hình thành. Các nhà hoạt động dân chủ sơ khai của Đài Loan lo sợ rằng họ có thể gặp một thảm họa Chernobyl của riêng mình và liên kết năng lượng hạt nhân với quá khứ độc tài của Đài Loan.
Tai nạn hạt nhân Fukushima năm 2011 ở Nhật Bản đã làm tăng thêm nỗi sợ hãi về hạt nhân. Trong những năm tiếp theo, chính phủ Đài Loan đã để sáu lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động – tất cả đều có hồ sơ tốt – hết hạn giấy phép và ngừng xây dựng thêm hai lò nữa. Khi làm như vậy, họ đã vô tình làm suy yếu an ninh năng lượng của hòn đảo. Ngày nay, hòn đảo nhập khẩu 98% năng lượng dưới dạng dầu, khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) và than đá. Sự phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng này có thể dễ dàng bị lợi dụng, đặc biệt là bởi Trung Quốc, quốc gia đang nhắm đến việc thống nhất với Đài Loan. Hải quân và lực lượng hải cảnh Trung Quốc thường xuyên diễn tập cắt đứt các cảng của hòn đảo, bao gồm cả các tàu chở năng lượng.
Một kịch bản như vậy sẽ là một thảm họa không chỉ đối với Đài Loan mà còn đối với Mỹ. Đài Loan cung cấp gần như tất cả các chip logic tiên tiến mà các công ty công nghệ Mỹ sử dụng để vận hành trí tuệ nhân tạo. Các nhà sản xuất chip, cả từ Đài Loan và các nơi khác, hiện đang cố gắng thành lập thêm các nhà máy sản xuất chip tiên tiến hơn ở Mỹ. Hàng nghìn tỉ USD vốn và công nghệ đã đầu tư vào Đài Loan có nghĩa là, ít nhất trong tương lai gần, sự thành công hay thất bại của AI ở Mỹ sẽ phụ thuộc trực tiếp vào hòn đảo này.
Đài Loan, ở một số khía cạnh, đã phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng năng lượng: cơ sở hạ tầng điện quá tải của Đài Loan đang vật lộn để theo kịp việc sản xuất chip AI đang bùng nổ. Riêng Công ty Sản xuất Chất bán dẫn Đài Loan hiện sử dụng 8% năng lượng của Đài Loan, gần bằng một nửa lượng tiêu thụ của tất cả các hộ gia đình trên hòn đảo. Nếu Mỹ muốn đảm bảo quyền tiếp cận các chip AI hàng đầu – và nếu muốn tránh một cuộc khủng hoảng địa chính trị hỗn loạn trong đó Trung Quốc giữ các nguồn nhập khẩu năng lượng của Đài Loan làm con tin – thì nên củng cố an ninh năng lượng của Đài Loan bằng cách giúp cải thiện khả năng lưu trữ năng lượng và khuyến khích hòn đảo này chấp nhận năng lượng hạt nhân.
Tắc nghẽn điện lưới
Đài Loan đã dành nhiều năm để chuẩn bị cho mối đe dọa quấy rối của Trung Quốc. Ví dụ, Đài Bắc đã tăng gấp đôi chi tiêu quốc phòng trong thập kỷ qua và hiện yêu cầu thanh niên phải thực hiện nghĩa vụ quân sự một năm. Vì vậy, thật đáng ngạc nhiên khi Đài Loan lại theo đuổi các chính sách năng lượng khiến chính mình dễ bị tổn thương trước những gián đoạn. Nhưng người dân Đài Loan, giống như những người ở nhiều nền dân chủ khác, xem mình là một phần của cộng đồng toàn cầu và đã xem xét hệ thống năng lượng của họ chủ yếu qua lăng kính môi trường.
Chính sách năng lượng của hòn đảo này nhằm mục đích chuyển đổi từ hạt nhân và than đá sang năng lượng tái tạo và khí đốt tự nhiên. Năm 2022, chính phủ thậm chí còn đặt mục tiêu đầy tham vọng là đạt được mức phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Những thay đổi như vậy được nhấn mạnh bởi áp lực quốc tế, đặc biệt là từ nhiều công ty Mỹ mua chip và các linh kiện khác từ Đài Loan, ví dụ, Apple ngày càng yêu cầu các nhà cung cấp địa phương hạn chế phát thải.
Thật không may, quá trình chuyển đổi năng lượng xanh của Đài Loan đang gặp khó khăn. Chỉ 12% tổng lượng điện của Đài Loan đến từ năng lượng tái tạo vào năm 2024, không đạt được mục tiêu của chính phủ là đạt 20% vào năm 2025. Nguyên nhân rất nhiều: các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa quá nặng nề, hạn chế sử dụng đất và chi phí tăng cao hơn. Khi nói đến xây dựng, Đài Loan giống California hơn là Quảng Đông, với nhiều người phản đối việc xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng mới ở sân sau nhà họ.
Do đó, hòn đảo đã đẩy phần lớn cơ sở hạ tầng hiện có của mình đến giới hạn. Tỷ lệ sử dụng của hai nhà ga nhập khẩu LNG hiện tại của Đài Loan – nói cách khác, tỷ lệ cơ sở vật chất được sử dụng so với công suất của nó – là hơn 90%, so với 50% so với mức trung bình của khu vực. Điều đó khiến Đài Loan kém linh hoạt trong việc tăng cường nhập khẩu hoặc sửa chữa các cơ sở. Một nhà ga thứ ba dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào mùa hè này, nhưng nó đã chậm trễ nhiều năm do các cuộc biểu tình về môi trường.
Thêm vào tình trạng bất ổn năng lượng của Đài Loan là thực tế điện lưới của họ, mặc dù hiệu quả về chi phí, cũng rất dễ quá tải. Điện lưới phải truyền tải điện từ miền nam ít dân cư đến các trung tâm tiêu thụ ở miền bắc qua ba đường dây cao thế xuyên núi. Trong điều kiện hoạt động bình thường, biên độ dự trữ của điện lưới – tức là bộ đệm của nó để tạo thêm điện đáp ứng các cú sốc bất ngờ – thường xuyên giảm xuống dưới 10%, mức đáng lo ngại ở Mỹ . Hòn đảo này phải vật lộn với tình trạng mất điện, và mối đe dọa mất điện định kỳ gây căng thẳng cho các nhà sản xuất công nghệ cao của Đài Loan. Ví dụ, một nửa các khu công nghiệp sản xuất chip của Đài Loan đã phải đối mặt với tình trạng mất điện luân phiên vào tháng 5 năm 2021.
Sự bất ổn của Đài Loan cũng trầm trọng hơn do khả năng lưu trữ năng lượng hạn chế. Mỹ và Châu Âu có thể, nhờ địa chất của họ, dự trữ lượng khí đốt tự nhiên đủ dùng trong nhiều tháng trong các hang động ngầm đã cạn kiệt, nhưng các đảo ở Đông Á – Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan – phải sử dụng các bể chứa, vốn đắt hơn nhiều. Các nước láng giềng của Đài Loan đã thực hiện các bước để giải quyết vấn đề này. Ví dụ, Nhật Bản đã dành 50 năm qua để củng cố an ninh năng lượng bằng cách xây dựng kho dự trữ khổng lồ và tạo ra hạm đội tàu chở LNG riêng, hiện là lớn nhất thế giới, vừa vận chuyển khí đốt vừa đóng vai trò như kho nổi. Trong khi đó, Hàn Quốc duy trì nguồn cung LNG đủ dùng trong 30 đến 40 ngày để vượt qua mùa đông lạnh giá của mình. Ngược lại, Đài Loan chỉ có thể dự trữ đủ dùng trong mười ngày. Với việc cứ mỗi ngày rưỡi lại có một tàu chở LNG dỡ hàng tại cảng Đài Loan, thì một cuộc phong tỏa hải quân, hay thậm chí là liên tiếp các cơn bão, có thể nhanh chóng làm cạn kiệt nguồn cung thông thường.
Theo nhiều cách, Đức là một bài học cảnh báo hữu ích cho Đài Loan: cả hai đều đóng cửa các lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động tốt, tăng cường chiến lược nhập khẩu khí đốt tự nhiên dễ vỡ, và hy vọng rằng năng lượng tái tạo sẽ phát triển đủ nhanh để lấp đầy khoảng trống. Trong trường hợp của Đức, nước này trở nên phụ thuộc vào nhiên liệu của Nga, và khi Nga xâm lược Ukraine vào năm 2022, Berlin đã phải vật lộn để thoái vốn và tìm các nguồn khác. Ngược lại, Đài Loan vẫn còn thời gian để điều chỉnh. Đầu tư vào khả năng phục hồi điện lưới và lưu trữ năng lượng sẽ giúp ích, cũng như khởi động lại các lò phản ứng hạt nhân mới đóng cửa.
Nhờ giúp đỡ
Kể từ cuộc xâm lược Ukraine của Nga, người dân Đài Loan đã bắt đầu hiểu rằng họ phải xem xét nghiêm túc hơn an ninh của chính mình – bao gồm cả an ninh năng lượng. Họ đồng cảm với Ukraine, quốc gia đang phải chịu đựng các cuộc tấn công hàng đêm vào điện lưới của mình. Họ cũng thấy rằng Ukraine, và Châu Âu nói chung, đã phải chịu thiệt hại kinh tế do gián đoạn năng lượng. Người dân Đài Loan dường như đang thay đổi suy nghĩ. Ví dụ, theo một cuộc thăm dò được thực hiện vào tháng 8 năm 2024 của Tạp chí CommonWealth của Đài Loan, gần 70% người Đài Loan hiện muốn duy trì năng lượng hạt nhân.
Tuy nhiên, trong nền dân chủ sôi nổi của Đài Loan, phe thiểu số phản đối hạt nhân vẫn giữ được sức ảnh hưởng lớn và có tổ chức chặt chẽ. Và có rất ít chuyên gia kỹ thuật bên ngoài mà Đài Loan có thể tìm đến để được tư vấn về cách thay đổi hướng đi, một phần vì nước này không phải là thành viên của Cơ quan Năng lượng Quốc tế của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, với nhiệm vụ phân tích và giảm thiểu rủi ro an ninh năng lượng.
Với tầm quan trọng của việc Đài Loan đáp ứng các nhu cầu năng lượng mới nổi đối với Mỹ, chính phủ Mỹ nên can thiệp để giúp Đài Loan xem xét lại các lựa chọn năng lượng của mình. Ví dụ, mặc dù đã có nhiều hoạt động sâu rộng trong các vấn đề năng lượng quốc tế, Bộ Năng lượng Mỹ phần lớn đã bỏ qua Đài Loan do vị thế ngoại giao và sự trì trệ trong bộ máy hành chính của Washington. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, cơ quan chịu trách nhiệm về thống kê năng lượng, lần cuối cùng công bố đánh giá về hệ thống năng lượng của Đài Loan là chín năm trước. Một phân tích chính thức hơn về những đánh đổi trong chính sách năng lượng của Đài Loan, sử dụng các mô hình tinh vi tương tự như chính phủ Mỹ vẫn dùng, sẽ giúp Cục Năng lượng Đài Loan đánh giá rủi ro và cơ hội khi thay đổi hệ thống của mình.
Đài Loan cũng có thể học hỏi từ ví dụ của Mỹ. Tổng thống Donald Trump đã ủng hộ việc khôi phục năng lượng hạt nhân dân sự bằng cách ký các sắc lệnh hành pháp nhằm đơn giản hóa việc cấp phép hạt nhân và tái lập vị thế “dẫn đầu thế giới về năng lượng hạt nhân” của đất nước. Quốc hội đã cung cấp các khoản trợ cấp và tài trợ để duy trì hoạt động của các nhà máy điện hạt nhân cũ. Và Ủy ban Điều tiết Hạt nhân Mỹ đã gia hạn giấy phép của gần như tất cả các lò phản ứng đang hoạt động từ 40 năm lên 60 năm, và trong một số trường hợp, thậm chí 80 năm. Lĩnh vực công nghệ Mỹ cũng đang hồi sinh năng lượng hạt nhân để đáp ứng nhu cầu năng lượng AI: Microsoft đã ký hợp đồng với Constellation Energy, một công ty tiện ích điện, để mở lại một lò phản ứng tại Three Mile Island.
Đài Loan cũng có thể khởi động lại các lò phản ứng đã đóng cửa trong vài năm qua, bao gồm các lò phản ứng tại Maanshan và Kuosheng. Các nhà lãnh đạo hiện tại và đã nghỉ hưu của các công ty công nghệ Đài Loan, như Pegatron và United Microelectronics Company, đã ủng hộ việc này. Đồng thời, Bộ Năng lượng Mỹ nên tổ chức các cuộc đàm phán kỹ thuật với các đối tác Đài Loan về việc cấp phép lại các lò phản ứng đã đóng cửa, đánh giá rủi ro địa chấn đối với các nhà máy điện hạt nhân và quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng. Và khi Mỹ triển khai các lò phản ứng mô-đun nhỏ thế hệ thứ ba và thứ tư của riêng mình, an toàn hơn và có thể rẻ hơn các mẫu trước đó, nước này nên mời các quan chức Đài Loan chứng kiến quá trình để họ có thể đánh giá sự phù hợp của công nghệ cho hòn đảo.
Hợp tác về an ninh năng lượng nên vượt ra ngoài lĩnh vực hạt nhân. Mỹ và Đài Loan nên cùng nhau đánh giá khả năng bắt đầu các dự án xuất khẩu LNG mới. Họ cũng có thể thành lập một nhóm làm việc, bao gồm những người từ khu vực công và tư nhân, để đề xuất các cách đẩy nhanh việc phát triển kho chứa khí đốt và xử lý các gián đoạn đối với vận chuyển LNG.
Số phận nền dân chủ của Đài Loan có thể sẽ nằm ở khả năng sản xuất và lưu trữ năng lượng. Nếu hòn đảo có thể dự trữ nhiều hơn và hồi sinh các lò phản ứng hạt nhân của mình, nó sẽ ở một vị thế tốt hơn nhiều để chống lại cuộc xâm lược hoặc gián đoạn. Mỹ nên giúp Đài Loan cải thiện an ninh năng lượng của mình, không chỉ vì lợi ích của hòn đảo mà còn vì lợi ích của chính mình. Năng lượng hạt nhân có thể là chìa khóa để giúp nhà máy sản xuất chip của thế giới không bị mất điện.
JIM ELLIS là Nghiên cứu viên Thỉnh giảng Annenberg tại Viện Hoover và đã phục vụ 39 năm trong Hải quân Mỹ , bao gồm cả chức vụ Tư lệnh Bộ Tư lệnh Chiến lược Mỹ. Ông từng là Giám đốc điều hành của Viện Vận hành Điện hạt nhân.
STEVEN CHU là Giáo sư Sinh lý học Phân tử và Tế bào, cũng như Khoa học và Kỹ thuật Năng lượng tại Đại học Stanford, đồng thời từng giữ chức Bộ trưởng Năng lượng Mỹ từ năm 2009 đến 2013.