Tác giả: Nguyễn Khắc Giang
Tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam đang tăng tốc với tốc độ đáng lo ngại. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức 16% cho năm 2025 – con số vốn đã khá cao – nhưng chỉ trong nửa đầu năm, tín dụng đã tăng đến 10%, mức cao nhất kể từ đại dịch COVID-19. Đây là thực tế đáng lo ngại khi tín dụng tại Việt Nam thường tăng mạnh hơn vào nửa cuối năm. Thống đốc Nguyễn Thị Hồng đã cảnh báo Quốc hội về sự phụ thuộc quá lớn của nền kinh tế vào vốn ngân hàng, nhấn mạnh nhu cầu đa dạng hóa các kênh huy động vốn. Tuy nhiên, Thủ tướng Phạm Minh Chính gần đây chỉ đạo NHNN bỏ hoàn toàn chính sách hạn mức tín dụng và cơ chế phân bổ hạn mức theo từng ngân hàng.
Yêu cầu của Thủ tướng phản ánh thế lưỡng nan chính sách. Với mục tiêu tăng trưởng GDP đầy tham vọng ở mức 8% trong năm 2025, trong khi dư địa chính sách tài khóa bị thu hẹp, chính sách tiền tệ đang trở thành lựa chọn cuối cùng. Dù Chính phủ đã phân bổ mức vốn kỷ lục 33,2 tỷ USD cho đầu tư công năm nay, đến giữa năm mới chỉ giải ngân được khoảng 10,7 tỷ USD do vướng mắc về cơ chế. Trong bối cảnh đó, cộng thêm lo ngại về rủi ro thương mại – đặc biệt là nguy cơ Mỹ áp thuế – việc nới trần tín dụng dường như là công cụ duy nhất còn lại. Nhưng biên pháp này gợi nhớ đến giai đoạn 2007–2011 bất ổn, khi tín dụng tăng phi mã tới 54% (cao gấp ba lần khuyến nghị 15% của IMF), đẩy lạm phát lên 23% vào năm 2008 và khiến nền kinh tế gặp nhiều vấn đề nghiêm trọng. Chính điều này là nguyên nhân ra đời của chính sách hạn mức tín dụng mà giờ đây Chính phủ muốn gỡ bỏ.
Không thiếu những phê phán nhắm vào chính sách trần tín dụng. Việc thiếu công khai các tiêu chí phân bổ khiến ngân hàng không biết mình được xếp hạng dựa trên tiêu chí nào, dẫn đến vấn đề “xin-cho”, và thiếu minh bạch. Nhưng bất chấp những khiếm khuyết đó, chính sách này đã giúp Việt Nam duy trì ổn định vĩ mô suốt một thập kỷ qua. Lạm phát được kiểm soát dưới 5% kể từ năm 2013 – một thành tích đáng khen so với nhiều nền kinh tế đang phát triển khác.
Vụ đại án Vạn Thịnh Phát là minh chứng rõ nét cho hậu quả của việc buông lỏng giám sát. Ngân hàng SCB – bị bà Trương Mỹ Lan thao túng gián tiếp tới 91,5% thông qua hàng loạt cá nhân và công ty sân sau – đã huy động hàng chục tỷ USD nhờ lãi suất vượt trội, đồng thời cho vay trái quy định tới 93% tổng dư nợ. Tổng số tiền bị thất thoát lên tới 12,5 tỷ USD – một con số không tưởng. Nếu không có ràng buộc và giám sát chặt chẽ, hệ thống ngân hàng Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành mảnh đất màu mỡ cho các hành vi thao túng và lạm dụng quyền lực tài chính.
Đây chính là lý do vì sao việc tháo dỡ trần tín dụng một cách vội vàng là cực kỳ rủi ro. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng để giành thị phần có thể dẫn đến việc hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, làm tăng nguy cơ rủi ro hệ thống. Fitch Ratings đã cảnh báo rằng tỷ lệ tín dụng trên GDP của Việt Nam đã lên tới 135% vào cuối năm 2024 – hơn gấp đôi mức trung bình của các quốc gia cùng nhóm rủi ro.
Một hậu quả khác là dòng vốn dễ chảy vào các lĩnh vực đầu cơ thay vì sản xuất. Trong nửa đầu năm 2025, tín dụng vào bất động sản tăng 18,5%, gần gấp đôi tốc độ tăng chung của nền kinh tế. Riêng tại Techcombank – một trong những ngân hàng lớn nhất – hơn một nửa tín dụng cho tổ chức chảy vào lĩnh vực bất động sản. Trong khi đó, thị trường chứng khoán tăng trưởng mạnh bất chấp đơn hàng xuất khẩu sụt giảm, cho thấy sự thiếu cân bằng trong việc phân bổ tín dụng. Các ngành sản xuất công nghệ cao – vốn được Chính phủ ưu tiên phát triển – có nguy cơ bị lấn át bởi các kênh đầu tư “ngon ăn” hơn.
Thay vì gỡ bỏ hoàn toàn trần tín dụng, Việt Nam cần cải cách cơ chế hiện tại để hướng tới thị trường hóa một cách có kiểm soát. Điều cần làm trước mắt là công bố rõ ràng, minh bạch các tiêu chí phân bổ hạn mức, để ngân hàng có thể chủ động điều chỉnh chiến lược tín dụng. Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực giám sát ngân hàng và thúc đẩy việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như Basel III – vốn giúp đảm bảo ổn định tài chính mà không cần quá phụ thuộc vào công cụ hành chính.
Một số cải tiến gần đây cho thấy tín hiệu tích cực. Từ năm 2022–2023, NHNN đã cải thiện đáng kể tính minh bạch khi công bố hạn mức ngay từ đầu năm, thay vì phân bổ nhiều đợt. Nhờ đó, các ngân hàng có thể chủ động kế hoạch tín dụng, thay vì “chạy vạy” bổ sung giữa năm. Đặc biệt, việc gỡ bỏ trần tín dụng cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong năm 2024 là bước thử nghiệm có kiểm soát, bởi nhóm này chỉ chiếm dưới 5% thị phần tín dụng và đều tuân thủ tiêu chuẩn Basel III. Đây có thể là mô hình để tiến tới gỡ bỏ trần tín dụng cho các ngân hàng nội nếu họ đáp ứng chuẩn mực quản trị rủi ro quốc tế.
Song song với đó, Chính phủ cần giải quyết các vấn đề cấu trúc căn bản hơn. Phát triển thị trường vốn để giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng, cải thiện môi trường đầu tư để thu hút dòng vốn FDI chất lượng, và nâng cao mạng lưới an sinh xã hội để khuyến khích tiêu dùng nội địa – đây mới là con đường bền vững để thúc đẩy tăng trưởng.
Cuối cùng, điều quan trọng là cần nhìn nhận lại mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025 – con số vốn mang tính chính trị nhiều hơn là khả thi. Với bối cảnh thế giới đầy bất định, đặc biệt là rủi ro thương mại và chu kỳ giảm đơn hàng, theo đuổi mục tiêu cứng nhắc này có thể khiến Chính phủ rơi vào bẫy sử dụng các biện pháp ngắn hạn và đánh đổi sự ổn định trong dài hạn.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn đang trong quá trình cải tổ, với nhiều vấn đề tồn tại về quản trị, can thiệp chính trị và chuẩn mực an toàn vốn. Trong bối cảnh đó, giới hạn tín dụng – dù chưa hoàn hảo – vẫn là một “vòng kim cô” cần thiết. Tăng trưởng chất lượng cần thời gian và nền tảng vững chắc, thay vì tốc độ.
Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản trên chuyên trang bình luận Fulcrum.sg, ngày 29/07/2025.