Ngoại giao pháo hạm của Trump là chưa từng có tiền lệ

Nguồn: Christopher Sabatini, “Trump’s Gunboat Diplomacy Enters Uncharted Waters,” Foreign Policy, 04/09/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Việc đánh chìm một chiếc thuyền nhỏ mà Tổng thống Mỹ cho là đang chở theo ma túy đã vi phạm quy trình truyền thống.

Ngày 02/09 vừa qua, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết Hải quân Mỹ vừa đánh chìm một chiếc thuyền nhỏ trên vùng biển quốc tế và khẳng định 11 hành khách trên tàu là thành viên băng đảng vận chuyển ma túy. Trump và Ngoại trưởng Marco Rubio ca ngợi cuộc tấn công này là bằng chứng cho cam kết của chính quyền trong cuộc chiến ngăn ma túy xâm nhập vào Mỹ. Tuy nhiên, chiến dịch này thực chất đã vi phạm quy trình truyền thống, yêu cầu xác minh và thu giữ hàng hóa trên tàu cũng như giam giữ nhân viên, vốn là nhiệm vụ thường do Lực lượng Tuần duyên thực hiện, làm dấy lên những nghi ngờ về sứ mệnh thực sự của các chiến dịch hải quân Mỹ ngoài khơi bờ biển Venezuela.

Vài tuần trước đó, một hạm đội tàu chiến và một tàu ngầm hạt nhân đã được huy động đến phía nam vùng Caribbean. Hoạt động này diễn ra sau một chỉ thị bí mật của tổng thống, trong đó kêu gọi quân đội sử dụng vũ lực chống lại các băng đảng ma túy Mỹ Latinh. Chính quyền khẳng định rằng một trong những nhóm này, Băng đảng Mặt Trời của Venezuela, là do Tổng thống Nicolás Maduro của Venezuela cầm đầu.

Việc điều động một hạm đội tàu với 4.500 quân nhân Mỹ, bao gồm 2.200 lính thủy đánh bộ viễn chinh, để tấn công một chiếc thuyền 11 người mà không kiểm tra hàng hóa bên trong vừa là hành động quá mức cần thiết, vừa là sự phân bổ sai tài sản quân sự của Mỹ. Và bắt giữ từng chiếc thuyền riêng lẻ của những kẻ được cho là thành viên băng đảng mà không có thời gian biểu cụ thể cho nhiệm vụ có thể biến việc này thành một dự án không xác định thời hạn, với nguy cơ gây hại cho thường dân vô tội cũng như tiềm ẩn nguy cơ kích động xung đột lớn hơn.

Giai đoạn quân sự gần như có thể dự đoán trước này trong chính sách thất bại và nguy hiểm của Mỹ đối với Venezuela đã được khởi động bằng các lệnh trừng phạt kinh tế sâu rộng. Chiến lược “gây áp lực tối đa” của Trump trong nhiệm kỳ đầu cũng bao gồm việc công nhận chủ tịch Quốc hội là tổng thống lâm thời (shadow interim president) sau cuộc tái đắc cử bị nghi ngờ gian lận của Maduro năm 2018; kêu gọi các chính phủ ở châu Âu và châu Mỹ làm điều tương tự; và chuyển giao một số tài sản của Venezuela sang tài trợ cho chính quyền lâm thời này. Bất chấp tất cả những biện pháp đó, Maduro vẫn sống sót.

Việc Trump huy động quân đội là sự thừa nhận công khai (dù lặng lẽ) rằng các lệnh trừng phạt đã thất bại, nhưng nó cũng cho thấy một bước leo thang nguy hiểm. Hạm đội hùng hậu của Mỹ sẽ sớm được triển khai hoàn toàn ngoài khơi Venezuela. Cùng với việc tăng gấp đôi khoản tiền thưởng mà Mỹ dành cho việc bắt giữ Maduro lên 50 triệu USD, chính quyền đang đặt cược rằng họ có thể khiến Maduro hoảng sợ mà đầu hàng, hoặc nhiều khả năng hơn, là kích động ai đó trong nội bộ phản bội và lật đổ ông.

Canh bạc này có thể thành công, dù việc thiếu nỗ lực ngoại giao đi kèm để thành lập chính phủ lâm thời hậu Maduro sẽ sớm trở thành vấn đề. Tuy nhiên, rủi ro lớn hơn và trước mắt hơn là sau khi Mỹ điều động lực lượng, sẽ chẳng có gì thay đổi với Maduro cả. Khi đó, liệu hạm đội hải quân Mỹ có chịu rút lui về nước? Hay nhận thức về thất bại, và sự yếu kém, sẽ thúc đẩy hành động hung hăng hơn?

Các lệnh trừng phạt là cách gây áp lực dễ dàng và tương đối ít tốn kém. Khi Trump áp dụng chúng lên Venezuela vào năm 2019, ông đã bị thúc ép bởi đội ngũ những người theo chủ nghĩa tân bảo thủ mà ông đưa vào nội các của mình, đồng thời nhằm xoa dịu các cử tri Mỹ gốc Venezuela và Cuba bảo thủ ở Nam Florida. Trump hy vọng rằng việc bóp nghẹt nền kinh tế Venezuela, đặc biệt là ngành dầu mỏ, sẽ nhanh chóng mang lại cho ông kết quả mong muốn: Maduro sẽ khuất phục và đầu hàng trước sự thay đổi chế độ và dân chủ.

Nhưng điều đó đã không xảy ra. Thay vào đó, các lệnh trừng phạt của Mỹ đã gây ra tổn thất lớn cho sự tăng trưởng kinh tế của Venezuela, làm trầm trọng thêm tỷ lệ nghèo đói, và góp phần vào cuộc di cư của hơn 7 triệu người Venezuela, bao gồm cả sang Mỹ. Kết quả này lẽ ra không nên là bất ngờ đối với Washington. Lịch sử hơn 70 năm của các lệnh trừng phạt nhằm bảo vệ dân chủ và thúc đẩy thay đổi chế độ nhắm vào các chế độ chuyên chế vững chắc đều chỉ ra thất bại.

Một báo cáo gần đây của Viện Chatham đã chứng minh sai lầm của các biện pháp trừng phạt trên toàn cầu trong việc bảo vệ nền dân chủ trong những trường hợp khó khăn như Venezuela. Bên cạnh nhiều yếu tố khác, cơ sở dữ liệu của Viện Chatham đã xem xét tỷ lệ thành công của hơn 859 lệnh trừng phạt mà các quốc gia và tổ chức đa phương áp đặt từ năm 1950 đến năm 2023 dưới danh nghĩa bảo vệ nhân quyền và dân chủ hoặc thúc đẩy bất ổn chế độ.

Theo phân tích của chúng tôi, một phần dựa trên các tuyên bố công khai của chính phủ và các thực thể bị trừng phạt, hơn một nửa số lệnh trừng phạt đó đã thành công trong việc bảo vệ nhân quyền và dân chủ.

Phần lớn số những trường hợp thành công đó là ở các đồng minh phương Tây, các nước bán dân chủ, hoặc các quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi.

Các trường hợp lệnh trừng phạt thất bại hoặc kéo dài vô thời hạn (bao gồm cả lệnh trừng phạt Cuba năm 1962 của Mỹ) tập trung ở các chế độ phi dân chủ và – quan trọng hơn là – các chế độ tham nhũng đã được củng cố. Những trường hợp đó bao gồm Trung Quốc, Belarus, Myanmar, và Cuba.

Lý do khá rõ ràng, nhưng các nhà hoạch định chính sách muốn thể hiện cam kết đối với tự do thường không để ý đến nó.

Các chế độ chuyên chế phải chịu lệnh trừng phạt kinh tế sâu rộng – dù là Cuba, Iran, Myanmar, hay Venezuela – có xu hướng tái phân phối các tài sản được giải phóng bởi sự rút lui của phương Tây cho những người trong vòng tròn thân cận. Hậu quả là, không gian cho hoạt động kinh tế độc lập bị thu hẹp, trong khi những nhân vật thân cận với chế độ đang nắm quyền lại được ban thưởng, củng cố quyền lực, và cô lập khỏi thế giới kinh tế toàn cầu của phương Tây.

Ở Venezuela, các lệnh trừng phạt gây sức ép tối đa của Trump nhằm ngăn chặn các thực thể của Mỹ và quốc tế đầu tư vào quốc gia dầu mỏ này, hoặc tiến hành thương mại với các doanh nghiệp nhà nước – đặc biệt là công ty năng lượng PDVSA của Caracas – thay vào đó đã mở ra cơ hội cho đầu tư từ Trung Quốc, Iran, và Nga.

Ngoài ra còn có thách thức mới nổi từ các chế độ chuyên chế ở Trung Quốc, Cuba, Iran, Triều Tiên, Nga, và Venezuela – những nước đang hợp tác để trốn tránh các lệnh trừng phạt của Mỹ và, trong một số trường hợp, như với Trung Quốc và Nga, là tạo ra các nền kinh tế toàn cầu song song với phương Tây. Dù không có chính phủ nào trong số này thể hiện thiện chí – hoặc, trong trường hợp của Nga, là thể hiện năng lực – để bảo lãnh cho chế độ tham nhũng của Maduro, nhưng họ vẫn hiện diện như các đồng minh toàn cầu. Trung Quốc đang nhập khẩu dầu của Venezuela, còn Iran cung cấp chất pha loãng cho Venezuela để giúp nước này tinh chế dầu thô nặng. Sau khi Maduro ‘đánh cắp’ cuộc bầu cử tổng thống năm 2024 (như lời các giám sát viên bầu cử quốc tế) và sau khi các chính phủ dân chủ trên khắp thế giới từ chối công nhận kết quả, Trung Quốc, Cuba, Iran, Triều Tiên, và Nga đều chúc mừng ông với “chiến thắng” của mình.

Tuy nhiên, ngay cả khi các lệnh trừng phạt đối với Venezuela thất bại, chính quyền Trump vẫn không từ bỏ việc lên án Maduro và tính phi chính danh của nhiệm kỳ tổng thống của ông. Vậy là làn sóng nỗ lực thứ hai nhằm lật đổ chế độ đã bắt đầu – lần này bằng vũ lực. Sau khi Lầu Năm Góc để lộ thông tin rằng họ sẽ cho phép hành động quân sự nhằm tấn công những đối tượng bị xem là khủng bố ma túy, bao gồm cả Băng đảng Mặt Trời, chính quyền Trump hiện đã có đủ thẩm quyền và sự cho phép để loại bỏ các thành viên cấp cao trong chính phủ Maduro.

Xét đến quy mô và địa hình của Venezuela – rừng rậm, núi non, và nhiều trung tâm đô thị – một cuộc xâm lược toàn diện của Mỹ là điều khó có thể xảy ra, và chắc chắn là không khôn ngoan. Nhưng liệu việc huy động ban đầu có đủ sức khơi mào một làn sóng đào tẩu? Tin đồn rằng quân đội sắp sửa bỏ rơi Maduro đã là điệp khúc phổ biến suốt nhiều năm nay. Chẳng hạn, sau khi cuộc nổi dậy của người dân năm 2019 không thể châm ngòi cho cuộc nổi dậy quân sự, Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ lúc bấy giờ là John Bolton đã so sánh vòng tròn thân cận của Maduro với “bọ cạp trong chai,” hứa hẹn một cách sai lầm rằng sự phản bội là điều không thể tránh khỏi, nếu không muốn nói là sắp xảy ra.

Ngay cả khi các cuộc đào tẩu không xảy ra, thì các tàu tên lửa dẫn đường của Mỹ vẫn có thể phá hủy một số cơ sở quân sự quan trọng. Và với việc được phép ám sát các nhà lãnh đạo được chỉ định, Lầu Năm Góc có thể xem xét một lực lượng được nhắm mục tiêu để bắt cóc Maduro và đưa ông về Mỹ xét xử, hoặc thậm chí có khả năng ám sát ông.

Nhưng bất kỳ hành động nào của Mỹ bên trong Venezuela, dù là một cuộc xâm lược khó xảy ra, hay một mục tiêu có khả năng hơn là nhắm vào các tài sản quan trọng – cơ sở hạ tầng và con người – đều sẽ vấp phải sự lên án từ các nước láng giềng của Venezuela. Những thất bại kinh tế của chính quyền Maduro, làn sóng di cư mà họ tạo ra, cũng như các hoạt động phi pháp của chế độ này đã trở thành vấn đề nhức nhối trên khắp khu vực, từ Chile đến Panama. Chính phủ Argentina, Ecuador, và Paraguay đã ủng hộ việc Mỹ chỉ định Băng đảng Mặt Trời là một nhóm khủng bố ma túy. Tuy nhiên, ngay cả những quốc gia đó cũng khó chấp nhận một sự can thiệp của Mỹ nhằm loại bỏ các thành viên của chính phủ Venezuela. Suy cho cùng, đoàn kết khu vực để bảo vệ chủ quyền quốc gia vẫn là nguyên tắc cốt lõi của ngoại giao Mỹ Latinh.

Đối với các chính phủ từ châu Mỹ đến châu Âu, việc cô lập và đẩy nhanh quá trình tước bỏ quyền lực của chế độ chuyên chế Maduro không biết xấu hổ này vẫn nên là mục tiêu trọng tâm. Nhưng nếu các biện pháp trừng phạt không hiệu quả, và ngoại giao pháo hạm còn tệ hơn, thì đâu mới là việc nên làm?

Hy vọng duy nhất là chính quyền Trump đang tham gia vào các cuộc đàm phán ngoại giao song song. Những nỗ lực như vậy có thể tạo ra một chiến lược rút lui và kế hoạch hồi sinh tốt hơn nếu Maduro và các tướng lĩnh tham nhũng của ông quyết định tìm kiếm một lối thoát. Và việc này nên xoay quanh các cuộc đàm phán ngầm nhằm thúc đẩy sự công nhận ngoại giao, bao gồm tái lập đại sứ quán Mỹ tại Caracas, sử dụng những củ cà rốt thay vì chỉ có những cây gậy để khuyến khích các vụ đào tẩu, bao gồm cả việc đề nghị cho phép rời khỏi đất nước an toàn và hủy bỏ tiền thưởng treo trên đầu  các quan chức chủ chốt, cũng như khả năng ân xá có giới hạn cho những người bị cáo buộc phạm tội nhẹ.

Đồng thời, một sự phô trương sức mạnh khiêm tốn hơn nên được duy trì ở vùng Caribbean để ngăn chặn những kẻ buôn bán ma túy rời khỏi lãnh thổ Venezuela. Làm như vậy sẽ giúp chính quyền không còn nguồn thu quan trọng để thưởng cho các đồng minh tham nhũng. Một sự hiện diện quân sự tinh gọn cũng có thể thu hút sự ủng hộ từ các đồng minh của Mỹ, bao gồm cả châu Âu – một điểm đến quan trọng khác của cocaine được Venezuela vận chuyển. Điều này giúp tránh được viễn cảnh một hạm đội tàu chiếm và tàu ngầm đóng ngoài khơi bờ biển Venezuela, truy quét những chiếc thuyền nhỏ bị cáo buộc buôn lậu ma túy – hoặc tệ hơn, buôn người – một cách vô thời hạn.

Cuối cùng, màn khoa trương quân sự có thể châm ngòi cho những vụ đào tẩu mà chính quyền Trump và những người ủng hộ chính sách của họ đã rêu rao suốt bảy năm nay. Nhưng nếu không, những gì xảy ra tiếp theo có thể sẽ còn tồi tệ hơn hiện trạng.

Christopher Sabatini là nghiên cứu viên cấp cao về Mỹ Latinh tại Viện Chatham. Ông cũng là giáo sư tại Khoa Chính sách Công, Trường Kinh tế London.