Lịch sử phức tạp của Trung Quốc với Mông Cổ

Nguồn: James Palmer, “China’s Messy History With Mongolia”, Foreign Policy, 11/11/2025

Biên dịch: Tạ Kiều Trang

Mối quan hệ sắc tộc giữa hai nước đã trở nên căng thẳng trong những năm gần đây.

Tiêu điểm tuần này: Cùng nhìn lại lịch sử mối quan hệ sắc tộc ngày một căng thẳng giữa Trung Quốc và Mông Cổ; Thủ tướng mới của Nhật Bản nêu rõ lập trường về Đài Loan; Trung Quốc nổi bật tại hội nghị khí hậu thường niên của Liên Hợp Quốc.

Tóm tắt lịch sử quan hệ Trung Quốc – Mông Cổ

Nước láng giềng phương bắc của Trung Quốc là Mông Cổ đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng hiến pháp sau khi Tòa án Tối cao nước này ra phán quyết vào tháng trước rằng cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm của Quốc hội đối với Thủ tướng diễn ra hồi giữa tháng 10 đã tiến hành không đúng quy định, từ đó khiến cuộc xung đột đang diễn ra giữa Quốc hội và Tổng thống nước này thêm trầm trọng.

Thế nhưng biến động này sẽ không ảnh hưởng đến phần lớn người Mông Cổ, những người đang phải đối mặt với một loạt vấn đề chính trị hoàn toàn khác. Bởi vì có khoảng 6,3 triệu người Mông Cổ sống ở Trung Quốc, chủ yếu ở khu vực Nội Mông. Con số này gần gấp đôi 3,5 triệu người sống ở quốc gia Mông Cổ (trước đây gọi là Ngoại Mông).

Dân số người Mông Cổ ở Trung Quốc cũng đông hơn nhiều so với người Kazakh và người Uzbek. Vậy tại sao lại có nhiều người Mông Cổ ở Trung Quốc đến vậy? Câu hỏi thực tế là tại sao lại không có nhiều người Mông Cổ hơn ở Trung Quốc?

Nội Mông và Ngoại Mông là những tên gọi khu vực được đặt ra dưới thời nhà Thanh (1644 – 1911). Khác với các đế chế trước đó, bản đồ lãnh thổ nhà Thanh cho thấy biên giới và vùng chủ quyền của nhà Thanh gần như tương ứng với biên giới Trung Quốc ngày nay, ngoại trừ khu vực Ngoại Mông và Siberia đã bị Nga tước đoạt từ từ.

Những người cai trị nhà Thanh – người Mãn Châu, một dân tộc phương bắc có mối quan hệ về mặt sắc tộc với người Mông Cổ – đã nỗ lực bảo vệ sự toàn vẹn sinh thái và văn hóa của Mông Cổ, nên ban đầu đã cấm người Hán định cư tại đây. Tuy nhiên, đến thế kỷ 19, tình trạng quá đông dân và khai thác nông nghiệp quá mức ở phương nam đã thúc đẩy người Hán di cư lên phía bắc. Sự sụp đổ quyền lực của nhà Thanh sau cuộc Khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc năm 1850 đã giáng một đòn cuối cùng và dẫn đến sự bùng nổ số lượng người Hán đến Nội Mông định cư.

Những người mới đến định cư đã mua đất từ ​​giới quý tộc Mông Cổ, làm xói mòn quyền chăn thả truyền thống của thường dân Mông Cổ và châm ngòi cho hàng thập kỷ xung đột bạo lực sắc tộc. Các thủ lĩnh kháng chiến như Dambijantsan đã tiến hành những chiến dịch dài hơi chống lại sự cai trị của nhà Thanh, nhưng tương quan nhân khẩu học và kinh tế đều bất lợi cho họ.

Ngược lại, Ngoại Mông hầu như vẫn toàn vẹn. Khi triều đại nhà Thanh cuối cùng cũng sụp đổ vào năm 1911, Ngoại Mông đã tuyên bố độc lập với tên gọi Mông Cổ dưới thời Bogd Khan, vị lãnh tụ địa phương tương đương với Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Quân đội Trung Quốc xâm lược Mông Cổ vào năm 1919 nhưng bị đánh đuổi bởi thủ lĩnh quân phiệt Bạch vệ Roman von Ungern-Sternberg. Lo rằng Mông Cổ sẽ trở thành căn cứ kháng chiến, phe Bolshevik đã tiến hành xâm lược Mông Cổ vào năm 1921, biến nơi đây thành quốc gia vệ tinh đầu tiên của Liên Xô.

Trớ trêu thay, 70 năm áp bức của Liên Xô lại giúp bảo vệ nền tự do của Mông Cổ về lâu dài. Ngay cả khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa xâm lược Tân Cương và Tây Tạng, đồng thời nắm quyền kiểm soát Nội Mông, họ vẫn để yên cho Mông Cổ, vốn được Liên Xô bảo hộ. Khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, Mông Cổ nổi lên với tư cách một nhà nước dân chủ và đến nay vẫn là một trong những nền dân chủ ổn định ở Trung Á.

Ngày nay, mối quan hệ sắc tộc và chính trị giữa Mông Cổ và Trung Quốc rất phức tạp. Một số người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc vẫn nuôi dưỡng tâm thế phục thù Mông Cổ; ở Mông Cổ, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bài Trung Quốc khá phổ biến.

Trong phạm vi Trung Quốc, quan hệ giữa người Mông Cổ và người Hán tương đối ổn định so với quan hệ giữa người Hán với người Tây Tạng và Duy Ngô Nhĩ. Một phần là do Bắc Kinh thường áp dụng các chính sách ít áp bức hơn ở Nội Mông, nơi những người cộng sản địa phương đã đóng vai trò then chốt trong việc giúp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thiết lập quyền lực. (Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, Trung Quốc đã tiến hành một cuộc tàn sát tàn bạo ở Nội Mông).

Định kiến​​ với người Mông Cổ cũng ít phổ biến hơn so với người Tây Tạng hay người Duy Ngô Nhĩ, bởi vì người Mông Cổ thường được coi là nhóm thiểu số kiểu mẫu. Hôn nhân giữa người Mông Cổ và người Hán khá phổ biến, và nhiều người Trung Quốc có gốc gác lai. Thậm chí còn có một số quan chức cấp cao người Mông Cổ trong Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).

Tuy nhiên, dưới thời Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, vị thế một thời an toàn này đã trở nên ngày một bấp bênh. Trung Quốc đã đảo ngược các chính sách lâu đời cho phép trẻ em dân tộc thiểu số được học bằng ngôn ngữ của chính các em, buộc trẻ em Mông Cổ phải học hoàn toàn bằng tiếng Hán. Chính điều này đã dẫn tới các cuộc biểu tình lớn ở Nội Mông vào năm 2020, đáp lại là những đợt đàn áp văn hóa và tôn giáo trên diện rộng.

Trong khi đó, việc ĐCSTQ áp dụng thuật ngữ “văn hóa biên cương phương Bắc” bị người Mông Cổ coi là một nỗ lực xóa bỏ văn hóa và bản sắc của họ. Các quan chức người Mông Cổ đã bị nhắm mục tiêu trong các cuộc thanh trừng gần đây của ĐCSTQ, và các tổ chức Nội Mông gồm báo chí, nhà xuất bản, chùa chiền và trường đại học cũng đang phải đối mặt với những quy định chính trị mới khắt khe.

Người dân Mông Cổ bên kia biên giới đang theo dõi sự thay đổi này với nỗi lo ngày càng lớn. Dù chính phủ Mông Cổ nhìn chung tránh đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh, nhưng họ vẫn âm thầm tìm kiếm sự hậu thuẫn của Mỹ để tạo thế cân bằng trước Trung Quốc và Nga.

Tuy nhiên, với việc bối cảnh chính trị hỗn loạn của Mông Cổ tiếp tục biến động và xuất hiện những câu chuyện đáng lo ngại về người Mông Cổ ở Trung Quốc, thì chủ nghĩa dân túy bài Trung Quốc có khả năng sẽ trở thành một lực lượng chính trị mạnh mẽ hơn.

Tin tức được quan tâm

Quan hệ Nhật – Trung. Thủ tướng mới của Nhật Bản, bà Sanae Takaichi, một người theo đường lối dân tộc chủ nghĩa, đã nhanh chóng đưa mối quan hệ của đất nước bà với Trung Quốc đi đến bờ vực. Trong bài phát biểu trước Quốc hội hồi đầu tháng này, bà Takaichi cho biết một cuộc tấn công vào Đài Loan có thể được xem là một rủi ro mang tính sống còn đối với Nhật Bản, và điều đó sẽ đủ để biện minh cho việc triển khai quân sự.

Dù Nhật Bản từ trước đến nay vẫn duy trì quan hệ bền chặt với Đài Loan, một thuộc địa cũ, nhưng việc một nhà lãnh đạo Nhật Bản thể hiện lập trường một cách rõ ràng như vậy là điều bất thường.

Những phát biểu này tất nhiên đã chọc giận Bắc Kinh. Tổng lãnh sự Trung Quốc tại Osaka, Nhật Bản, đã kích động thêm sự việc khi ông có vẻ như đang đe dọa bà Takaichi trên mạng xã hội. Bài đăng của vị quan chức ngoại giao – một sự gợi nhớ lại thời kỳ gọi là ngoại giao “chiến lang” của Trung Quốc – đã bị xóa.

Vấn nạn quay lén ở Hồng Kông. Hồng Kông đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng tội phạm tình dục, bao gồm quay lén trên mạng, nội dung khiêu dâm giả (deep-fake pornography) và rình rập. Chính phủ đang xem xét luật mới để xử lý vấn đề này, thế nhưng đây là một vấn đề nhạy cảm về mặt chính trị: Sự phẫn nộ đã bùng lên trong năm nay vì vụ bê bối “MaskPark”, trong đó hình ảnh khỏa thân của nạn nhân bị chụp mà không có sự đồng ý và bị chia sẻ trong các nhóm trực tuyến.

Phụ nữ ở Hồng Kông đang nhìn sang Hàn Quốc, nơi camera ẩn đã là vấn nạn trong nhiều năm, để tìm ý tưởng đấu tranh với nạn quay lén.

Không mấy ngạc nhiên khi việc thảo luận về vụ bê bối MaskPark thường bị kiểm duyệt ở đại lục, nơi chính phủ không thiện chí với nữ quyền. Thế nhưng Hồng Kông, bất chấp việc luật an ninh quốc gia được ban hành vào năm 2020, vẫn là một môi trường tự do hơn cho những cuộc thảo luận này.

Công nghệ và Kinh doanh

Hội nghị khí hậu. Với việc Mỹ hầu như vắng mặt tại hội nghị khí hậu của Liên Hợp Quốc năm nay, hay còn gọi là COP30, Trung Quốc đang sẵn sàng dẫn đầu. Chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump đang tích cực vận động chống lại các nỗ lực chống biến đổi khí hậu. Họ cũng đang đe dọa các nước nghèo hơn và nhỏ hơn đang phụ thuộc Mỹ về mặt kinh tế để nhằm ngăn cản nỗ lực giảm phát thải.

Trong khi đó, Trung Quốc đã kiềm chế chủ nghĩa phủ nhận biến đổi khí hậu trong phạm vi trong nước từ nhiều năm trước và hiện đang dẫn trước trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng xanh. Những nước khác muốn bắt kịp xu hướng đó đang chớp lấy cơ hội để mua công nghệ Trung Quốc. Tất cả những điều này khiến Trung Quốc trông như một cường quốc có trách nhiệm, một hình ảnh trái ngược hoàn toàn với Mỹ.

Ngoại giao chip. Do lo ngại rằng Nexperia, một công ty chip thuộc sở hữu của Trung Quốc có trụ sở tại Hà Lan, đang rò rỉ thông tin cho Trung Quốc, chính phủ Hà Lan đã tiếp quản quyền kiểm soát công ty hồi tháng 9. Đáp lại, Bắc Kinh trả đũa bằng cách chặn xuất khẩu sang châu Âu các loại chip quan trọng trong ngành công nghiệp ô tô, khiến các nhà sản xuất hoảng loạn.

Với tâm thế tích cực hơn sau hội nghị thượng đỉnh Tập – Trump tháng trước, Trung Quốc đã dỡ bỏ không chỉ riêng những biện pháp đối với Mỹ mà cả những biện pháp kiểm soát chip và giảm bớt đe dọa liên quan đến đất hiếm. Cả Bắc Kinh và Washington đều đã hoãn hoặc huỷ các biện pháp đe dọa thương mại, thế nhưng Trung Quốc vẫn chưa thuyết phục được chính quyền Trump xuất khẩu dòng chip tiên tiến được săn đón nhiều nhất của Nvidia.