Đã đến lúc Việt Nam giải quyết tình trạng bế tắc của các dự án năng lượng tái tạo

Tác giả: Lê Hồng Hiệp

Một cuộc khủng hoảng pháp lý đang âm ỉ đe dọa làm chệch hướng các kế hoạch phát triển năng lượng của Việt Nam. 173 dự án điện mặt trời và điện gió, với tổng vốn đầu tư khoảng 13 tỷ đô la Mỹ, đang bị đình trệ do những tranh chấp dai dẳng liên quan đến biểu giá điện hỗ trợ (feed-in-tariff hay FIT) của các dự án này. Tình trạng này làm dấy lên lo ngại về môi trường kinh doanh và tính nhất quán trong chính sách kinh tế của Việt Nam. Nếu không giải quyết kịp thời những tranh chấp này, Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với những hậu quả pháp lý, tài chính và uy tín đáng kể.

Trong giai đoạn 2018-2021, Việt Nam đã chứng kiến ​​sự bùng nổ đáng kể về năng lượng tái tạo, chủ yếu nhờ cam kết của Chính phủ về việc cung cấp các mức giá FIT hấp dẫn trong 20 năm cho các nhà đầu tư đối với các dự án bắt đầu vận hành thương mại trước các thời hạn quy định. Tuy nhiên, vào năm 2023, một cuộc điều tra của Thanh tra Chính phủ đã phát hiện ra rằng nhiều dự án trong số này chưa được cấp Giấy chứng nhận hoàn thành xây dựng (CCA) trước Ngày vận hành thương mại (COD). Sau cuộc thanh tra, Bộ Công Thương đã ban hành một thông tư mới, có hiệu lực từ tháng 6 năm 2023, quy định rằng các dự án năng lượng tái tạo phải có Giấy chứng nhận CCA trước khi được công nhận COD. Điều này trên thực tế đã loại các dự án bị ảnh hưởng khỏi việc được hưởng mức giá FIT ban đầu.

Các nhà đầu tư đã phản đối, lập luận rằng thông tư này có hiệu lực hồi tố vì yêu cầu về CCA không tồn tại ở thời điểm các dự án của họ được cấp phép vận hành thương mại (COD) trước đây. Tuy nhiên, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), đơn vị mua điện chính của các dự án này, đã giữ lại các khoản thanh toán hoặc yêu cầu hoàn trả các khoản thanh toán “thừa” từ các nhà đầu tư, với lý do các dự án này vi phạm quy định. Tình trạng này đã đẩy các dự án vào tình trạng khó khăn về tài chính và có nguy cơ phá sản. Các nhà đầu tư đã nhiều lần gửi đơn kiến ​​nghị lên các cơ quan chức năng, yêu cầu một giải pháp công bằng và minh bạch cho tranh chấp. Đầu tháng này, 23 nhà đầu tư nước ngoài, với các dự án có tổng công suất 4.182 MW, đã tiếp tục yêu cầu đối thoại với các cơ quan chức năng để giải quyết bế tắc.

Sự đảo ngược chính sách này không chỉ gây thiệt hại tài chính tức thời cho các nhà đầu tư mà còn làm suy yếu niềm tin mà Việt Nam đã dày công gây dựng trong nhiều năm thông qua những diễn ngôn về khuyến khích đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài thứ ba ngay tình, những người đã mua lại dự án từ các nhà đầu tư trong nước một cách thiện chí sau khi các dự án hoàn tất thủ tục vận hành thương mại, bị ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng, vì những thay đổi chính sách của chính phủ có nguy cơ làm khoản đầu tư của họ bị giảm mạnh giá trị. Những sự thiếu nhất quán như vậy đương nhiên sẽ tạo ra nhận thức tiêu cực về môi trường kinh doanh của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư. Sự thất vọng này phản ánh tâm lý chung của nhiều nhà đầu tư. Ví dụ, Khảo sát Cập nhật Thị trường giữa năm 2025 của Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam đã xác định sự thiếu nhất quán về chính sách là một trong những rào cản chính đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Sự chậm trễ kéo dài trong việc giải quyết các tranh chấp này đe dọa tham vọng kép của Việt Nam là đạt được mức tăng trưởng GDP hai con số trong những năm tới và đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Trong bối cảnh Việt Nam, ước tính cứ mỗi 1 phần trăm tăng trưởng GDP thì cần tăng nguồn cung điện tương ứng từ 1,5 đến 2 phần trăm. Tranh chấp hiện tại có thể ngăn cản các nhà đầu tư năng lượng cam kết thực hiện các dự án mới. Nếu không có dòng vốn mới, ước tính lên tới khoảng 135 tỷ đô la Mỹ cho quá trình chuyển đổi năng lượng của Việt Nam cho tới năm 2030, tình trạng thiếu điện có thể xảy ra, kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Tham vọng đạt mức phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam cũng đang gặp rủi ro, khi mục tiêu năng lượng tái tạo chiếm 28-36% cơ cấu năng lượng vào năm 2030, và 74-75% vào năm 2050, ngày càng khó đạt được nếu tình trạng bế tắc hiện tại kéo dài.

Mặc dù các nhà đầu tư ưu tiên đối thoại và đàm phán, họ cũng bày tỏ sẵn sàng theo đuổi các vụ kiện quốc tế. Đây là một rủi ro mà EVN đã thừa nhận. Kinh nghiệm của Tây Ban Nha là một tiền lệ rõ ràng. Từ năm 2008 đến năm 2012, Madrid đã áp dụng hồi tố nhiều hạn chế, bao gồm cả việc giảm giá FIT, đối với các dự án điện mặt trời vốn từng bùng nổ nhờ các ưu đãi hào phóng của chính phủ. Điều này dẫn đến nhiều khiếu nại từ các nhà đầu tư được đệ trình lên Trung tâm Giải quyết Tranh chấp Đầu tư Quốc tế. Các tòa án liên tục phán quyết theo hướng bất lợi cho chính phủ Tây Ban Nha, dẫn đến việc chính phủ nước này phải bồi thường cho các nhà đầu tư bị thiệt hại lên tới 1,5 tỷ euro tính đến tháng 6 năm 2025.

Việt Nam cũng phải đối mặt với những rủi ro tương tự. Việc thua kiện trong các phiên tòa trọng tài có thể dẫn tới các khoản bồi thường đáng kể và gây tổn hại lớn đến uy tín quốc tế của Việt Nam. Điều này có khả năng cản trở dòng vốn FDI không chỉ trong lĩnh vực năng lượng mà còn trong lĩnh vực công nghệ và chế tạo, nơi sự nhất quán về chính sách là yếu tố then chốt đối với các nhà đầu tư.

Có dấu hiệu cho thấy giới chức Việt Nam đã nhận thức được những hậu quả tiềm tàng này và đang tìm kiếm các giải pháp đàm phán mà các nhà đầu tư có thể chấp nhận. Ví dụ, EVN được cho là đã đề xuất rằng các chủ sở hữu nhà máy điện tái tạo nào chỉ được phê duyệt CCA sau khi dự án đã đi vào vận hành thương mại sẽ chỉ bị phạt hành chính, thay vì bị hủy bỏ hoặc điều chỉnh giá FIT ban đầu. Nếu được thông qua, đề xuất này có thể giải quyết các vấn đề hiện đang ảnh hưởng đến 173 dự án. Tuy nhiên, cho đến nay, đề xuất này vẫn chưa được chính thức thông qua.

Sự chậm trễ này có thể xuất phát từ hai yếu tố chính. Thứ nhất, các quan chức hiện tại có thể ngần ngại phê duyệt phương án này do lo ngại về trách nhiệm chính trị. Giá FIT ban đầu hiện bị một số lãnh đạo cho là quá cao, dẫn đến thiệt hại tài chính cho EVN và cuối cùng là cho Nhà nước. Thứ hai, bản thân EVN cũng đang gặp khó khăn về tài chính, với tổng mức lỗ lũy kế lên tới 44,8 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2024. Do đó, nếu đề xuất này được phê duyệt ngay bây giờ, EVN có thể không có đủ tiền mặt để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính đối với các chủ dự án. Do đó, các dự án bị ảnh hưởng vẫn trong tình trạng bất định, đối mặt với những thách thức ngày càng nặng nề.

Kể từ khi Tổng Bí thư Tô Lâm nhậm chức vào tháng 8 năm 2024, ông đã theo đuổi tầm nhìn đưa đất nước bước vào “kỷ nguyên vươn mình”. Mục tiêu là đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Để đạt được điều này, ông đã ban hành nhiều cải cách chính trị và kinh tế sâu rộng, khiến nhiều nhà đầu tư cảm thấy lạc quan về triển vọng đầy hứa hẹn của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức đáng kể, đặc biệt là sự thiếu nhất quán giữa diễn ngôn chính trị và thực tiễn kinh tế, cũng như giữa các chính sách cấp cao và việc thực thi ở cấp địa phương và bộ ngành. Tình trạng bế tắc pháp lý hiện nay trong lĩnh vực năng lượng tái tạo là một minh chứng rõ ràng cho sự thiếu nhất quán này.

Đã đến lúc Việt Nam cần có hành động dứt khoát để giải quyết những bất định dai dẳng xoay quanh các dự án này, qua đó khôi phục niềm tin của các nhà đầu tư vào tính nhất quán trong chính sách của Việt Nam. Chỉ khi đó, Việt Nam mới có thể duy trì uy tín đã dày công gây dựng trong mắt các nhà đầu tư, đồng thời khuyến khích họ tham gia vào các dự án năng lượng mới, qua đó góp phần thúc đẩy tham vọng kinh tế của đất nước.

Lê Hồng Hiệp là Nghiên cứu viên cao cấp và Điều phối viên Chương trình Nghiên cứu Việt Nam tại Viện ISEAS – Yusof Ishak. Một phiên bản tiếng Anh của bài viết đã được xuất bản trên chuyên trang bình luận FULCRUM.

Khúc quanh bất ngờ trong hành trình năng lượng tái tạo của Việt Nam