
Nguồn: “China’s creepiest export surge”, The Economist, 13/11/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
“Tôi đã gặp những người đáng mến nhất trên đường phố Serbia: các sĩ quan cảnh sát Trung Quốc”, một du khách Trung Quốc thổ lộ trong một bài báo được đăng bởi một trong những trường đại học cảnh sát của nước anh ấy về các cuộc tuần tra chung với cảnh sát Serbia ở Belgrade. Anh nói: “Tôi cảm thấy rất vui, an toàn và tự hào”.
Bài báo mang tính tuyên truyền này hoàn toàn phù hợp với tầm nhìn của Trung Quốc về an ninh toàn cầu: một thế giới mà nước này giúp “duy trì hòa bình và an ninh thế giới” đồng thời đề cao “nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ” trái ngược với cách thức “chủ nghĩa đơn phương” và “đối đầu khối” của phương Tây. Ít nhất đó là cách nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc, Tập Cận Bình, mô tả Sáng kiến An ninh Toàn cầu (GSI) khi ông công bố nó vào năm 2022.
Kể từ đó, Trung Quốc đã nhanh chóng mở rộng hoạt động an ninh ở nước ngoài bằng cách cung cấp cho các chính phủ nước ngoài dịch vụ huấn luyện cảnh sát và công nghệ giám sát với trọng tâm là ổn định trong nước. Trung Quốc đang giúp các chính phủ không chỉ chống tội phạm, mà còn kiểm soát công dân của họ và giữ vững quyền lực – và dịch vụ này đang trở nên vô cùng phổ biến.
GSI, giống như ba sáng kiến toàn cầu khác của ông Tập (về phát triển, quản trị và đa dạng văn hóa), trước hết là một nỗ lực nhằm xây dựng các mạng lưới ảnh hưởng quốc tế mới lấy Trung Quốc làm trung tâm. Để hiện thực hóa mục tiêu này, Trung Quốc đã nâng cấp một diễn đàn cảnh sát khu vực nhỏ thành sự kiện an ninh quốc tế lớn nhất của mình: Diễn đàn Hợp tác An ninh Công Toàn cầu. Các đại biểu từ hơn 120 quốc gia đến để thảo luận về hợp tác an ninh và chiêm ngưỡng công nghệ cảnh sát của Trung Quốc, chẳng hạn như robot cảnh khuyển.
Năm ngoái, các nhà tổ chức đã công bố “Bảng chỉ số An ninh Công cộng Toàn cầu”, xếp hạng các quốc gia theo điểm số tùy tiện dựa trên các tiêu chí bao gồm tội phạm súng đạn, tử vong do tai nạn giao thông và khủng bố. Đơn vị đứng đầu là Trung Quốc. Mỹ rõ ràng là dưới mức trung bình. Đây là một hoạt động nhằm “định hình lại các tiêu chuẩn về định nghĩa và hình thức của an ninh”, cũng như “tấm gương đúng đắn để noi theo”, Sheena Greitens thuộc Đại học Texas cho biết.
Ảnh hưởng an ninh công cộng của Trung Quốc cũng đang lan rộng theo những cách thiết thực. Xuất khẩu công nghệ giám sát đang tăng vọt. Hai công ty Trung Quốc, Hikvision và Dahua, là những nhà sản xuất camera giám sát lớn nhất thế giới, với tổng thị phần là 40%. Huawei cung cấp hệ thống giám sát “Thành phố An toàn” cho hơn 100 quốc gia. Một cuộc điều tra gần đây của InterSecLab, mạng lưới chuyên về điều tra kỹ thuật số, đã phát hiện ra rằng Geedge Networks, một công ty tư nhân Trung Quốc, đã bán công nghệ kiểm soát internet cho chính phủ Ethiopia, Kazakhstan, Myanmar và Pakistan, giúp họ kiểm duyệt và theo dõi công dân của mình.
Trung Quốc cũng đã cung cấp gần 900 khóa đào tạo cho lực lượng cảnh sát và an ninh nội địa của 138 quốc gia kể từ năm 2000, theo một nghiên cứu mới của bà Greitens, Isaac Kardon và Cameron Waltz tại Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, một think-tank của Mỹ. Số lượng khóa đào tạo hàng năm đã tăng gần gấp 10 lần trong thập kỷ đầu tiên dưới sự lãnh đạo của ông Tập, tăng từ 14 khóa vào năm 2010 lên 138 khóa vào năm 2019 (xem biểu đồ). Tuy nhiên, con số này đã giảm mạnh trong đại dịch COVID-19 và vẫn chưa phục hồi hoàn toàn.

Phần lớn các chương trình huấn luyện này được tổ chức tại các trường cao đẳng cảnh sát ở Trung Quốc, thường đón tiếp các nhóm học viên gồm hàng chục người trong vài tuần hoặc vài tháng. Tại đây, nhóm sinh viên được học về hệ thống thực thi pháp luật của Trung Quốc, đi thực tế đến các cơ quan công an địa phương, và tham gia các khóa chuyên sâu về các chủ đề như kiểm soát biên giới hay an ninh đường sắt. Đáng chú ý, các học viên hàng đầu thường được chụp ảnh khi đang nhận sách “Bàn về quản lý Trung Quốc” của ông Tập Cận Bình. Bên cạnh đó, họ cũng có các hoạt động văn hóa như tập thái cực quyền hoặc viết thư pháp. Cảnh sát Trung Quốc còn cử chuyên gia sang công tác và làm việc với lực lượng cảnh sát nước ngoài. Chẳng hạn, năm nay một nhóm cố vấn Trung Quốc đã đến Quần đảo Solomon để quảng bá “Mô hình Phượng Kiều”, một hệ thống có từ thời Mao Trạch Đông, khuyến khích người dân theo dõi lẫn nhau.
Các quốc gia nhận được nhiều huấn luyện cảnh sát nhất từ Trung Quốc là các nước láng giềng, đặc biệt là các nước ở Trung Á và Đông Nam Á (xem bản đồ). Một số hợp tác đã có từ hàng thập kỷ do những lo ngại về an ninh biên giới. Các nước Trung Á chú trọng huấn luyện về chống khủng bố, trong khi Đông Nam Á hợp tác với Trung Quốc để đối phó với các vấn đề lừa đảo và buôn người. Các nước châu Phi cũng là những bên tham gia lớn, điều này có lẽ xuất phát từ mối quan tâm của Trung Quốc về việc bảo vệ các khoản đầu tư Vành đai và Con đường rộng lớn của họ trên lục địa này.

Điều gây tò mò hơn cả là loại hình chế độ mà Trung Quốc đang hợp tác. Khi chúng tôi đối chiếu dữ liệu của Quỹ Carnegie với chỉ số dân chủ của EIU (công ty chị em của chúng tôi), kết quả cho thấy 82% các chế độ độc tài đã nhận được huấn luyện cảnh sát từ Trung Quốc (xem biểu đồ). Mặc dù gần một phần ba các nền dân chủ hoàn chỉnh cũng nhận huấn luyện từ Trung Quốc, các nhà nghiên cứu của Carnegie nhận định rằng những khóa huấn luyện này thường chỉ mang tính chất hình thức, chẳng hạn như dạy tiếng Quan Thoại cho cảnh sát châu Âu để họ dễ dàng liên lạc với đồng nghiệp Trung Quốc.
Phần lớn các khóa huấn luyện cảnh sát của Trung Quốc đều tập trung vào các kỹ năng chung, chẳng hạn như chống tội phạm mạng hoặc chống ma túy. Những khóa này không khác biệt nhiều so với các chương trình huấn luyện cảnh sát nước ngoài mà Mỹ thực hiện thông qua Học viện Thực thi Pháp luật Quốc tế (ILEA) tại Botswana, El Salvador, Ghana, Hungary và Thái Lan. Các học viện của Mỹ đã đào tạo hơn 70.000 học viên từ 100 quốc gia kể từ năm 1995. Tuy nhiên, điểm khác biệt then chốt là viện trợ của Mỹ còn nhằm mục đích thúc đẩy dân chủ và có quy định không được cung cấp cho những nước vi phạm nhân quyền. (Mặc dù các quy định này không phải lúc nào cũng được thực thi nghiêm ngặt, và các chương trình thúc đẩy dân chủ đã bị cắt giảm kinh phí dưới thời chính quyền Trump).
Tuy nhiên, Trung Quốc lại tuyên bố rằng sự giúp đỡ của họ hoàn toàn vô điều kiện và không đi kèm bất kỳ ràng buộc nào về chính trị. Chính sách này đã giúp họ được ưa chuộng bởi các chế độ độc tài, các nền dân chủ khiếm khuyết, và các chế độ hỗn hợp – những quốc gia vốn có thể chế chính trị yếu kém và thường xuyên gặp vấn đề trong bầu cử. Cụ thể, 75% các nền dân chủ khiếm khuyết và 86% các chế độ hỗn hợp đã nhận được huấn luyện cảnh sát từ Trung Quốc.

Điều này không nhất thiết có nghĩa là Trung Quốc đang trực tiếp dạy họ cách trở thành chế độ độc tài, mặc dù thực tế có một số khóa học tập trung thẳng vào an ninh chế độ, chẳng hạn như bảo vệ yếu nhân (VIP) và kiểm soát bạo loạn. Hầu hết học viên tham gia các khóa này đều là sĩ quan cảnh sát đến từ các chế độ độc tài, ví dụ như Cộng hòa Trung Phi, Myanmar và Guinea. Hơn nữa, mặc dù Trung Quốc tuyên bố viện trợ của họ là vô điều kiện, nhưng trên thực tế, các nước nhận viện trợ đều được kỳ vọng phải ủng hộ các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc đối với Đài Loan và các khu vực khác.
Liệu sự hợp tác an ninh với Trung Quốc có khiến các chính phủ hành xử độc tài hơn không? Điều này phụ thuộc vào khuynh hướng sẵn có của họ. Một nghiên cứu gần đây của Erin Carter và Brett Carter tại Đại học Nam California chỉ ra rằng việc nhập khẩu công nghệ Huawei làm tăng sự đàn áp kỹ thuật số ở các nước chuyên chế, nhưng lại không gây ảnh hưởng ở các nước dân chủ. Bà Greitens nhận định rằng Trung Quốc “vừa mang lại phúc lợi công vừa gây dựng khả năng đàn áp tiềm tàng”. Huấn luyện cảnh sát và công nghệ của Trung Quốc đáp ứng nhu cầu thực sự của nhiều quốc gia, và những nước có đủ các biện pháp bảo vệ pháp lý cùng một xã hội dân sự mạnh mẽ có thể sử dụng chúng mà không bị cuốn vào con đường đàn áp.
Tuy nhiên, đối với các chính phủ có khuynh hướng độc tài, Trung Quốc đóng vai trò là bên hỗ trợ—và là nguồn cảm hứng. Dana Malikova, một chuyên gia về quyền kỹ thuật số người Kazakh, cho biết sau cuộc bất ổn dân sự năm 2022, Kazakhstan đã lắp kín các đường phố ở thành phố lớn nhất là Almaty bằng hàng nghìn camera do Trung Quốc sản xuất. Các cơ quan an ninh nước này có thể đang học hỏi từ các hệ thống của Trung Quốc ở Tân Cương bên kia biên giới, nơi sử dụng AI để nhận diện và áp đặt các hạn chế bổ sung lên những cá nhân có khả năng gây rắc rối, ngay cả khi họ chưa hề phạm tội. Điển hình, vào tháng 6, nhà hoạt động chống tham nhũng Sanzhar Bokayev đã bị chặn lại tại sân bay Almaty sau khi khuôn mặt anh kích hoạt cảnh báo trong cơ sở dữ liệu cảnh sát về “người bị truy nã”.
Hỗ trợ an ninh của Trung Quốc cũng không nhất thiết làm cho các quốc gia ổn định hơn. Ví dụ, Ethiopia đã trở nên bị giám sát chặt chẽ và đàn áp nặng nề hơn nhờ sự giúp đỡ từ Trung Quốc—nước đã huấn luyện lực lượng an ninh và cung cấp các hệ thống giám sát và kiểm duyệt internet. Tuy nhiên, quốc gia này đang đứng trên bờ vực hỗn loạn, với các cuộc nổi dậy hoành hành ở hai khu vực đông dân nhất, căng thẳng sắc tộc gia tăng và mối đe dọa chiến tranh mới với Eritrea. Thực tế này hoàn toàn trái ngược với viễn cảnh hòa bình và an ninh mà GSI của ông Tập Cận Bình mô tả.
Bộ công cụ đàn áp tự thực hiện
Điểm khôn ngoan nhất trong viện trợ an ninh của Trung Quốc là cách họ xoay xở để trao quyền cho các nhà độc tài mà không cần công khai thúc đẩy chủ nghĩa độc tài. Trung Quốc chỉ đơn thuần giới thiệu mình là nhà cung cấp công cụ để các chính phủ đối tác tùy ý sử dụng. Tại Serbia, sự việc mái che nhà ga do Trung Quốc xây dựng sụp đổ và khiến 16 người thiệt mạng vào tháng 11 năm ngoái đã châm ngòi cho các cuộc biểu tình lớn kéo dài gần một năm. Sinh viên biểu tình tức giận vì EU đã không ủng hộ chính nghĩa của họ. (Một người nói: “EU chẳng thèm quan tâm đến tình trạng dân chủ ở Serbia”). Tuy nhiên, 81% người Serbia vẫn có cái nhìn thiện cảm với Trung Quốc, bất chấp việc nước này huấn luyện cảnh sát của họ và cung cấp thiết bị do thám mà các nhà hoạt động tin rằng dùng để nhắm vào người biểu tình. Điều này một phần là do Trung Quốc không tự nhận mình đại diện cho bất kỳ hệ thống chính trị hay giá trị nào như cách các nước phương Tây thường làm, và họ cũng kiềm chế không bình luận về tình trạng bất ổn nội bộ của Serbia.
Chính sách ngoại giao an ninh phi điều kiện của Trung Quốc khiến các đối thủ khó lòng cạnh tranh. Điều này thể hiện rõ nhất ở các Quần đảo Thái Bình Dương. Mihai Sora thuộc Viện Lowy (một think-tank của Úc) cho biết, kể từ khi chấp nhận huấn luyện từ Trung Quốc, lực lượng cảnh sát ở những nơi như Quần đảo Solomon đã chuyển sang văn hóa bảo vệ nhà nước hơn là bảo vệ người dân. Ông Sora nhận định rằng, Úc chỉ có thể cạnh tranh bằng cách tham gia vào “cuộc chạy đua viện trợ liều lĩnh” là Úc phải cung cấp cho cảnh sát địa phương Quần đảo Solomon nhiều thiết bị và hỗ trợ hơn Trung Quốc, nhưng kèm theo ít điều kiện ràng buộc hơn. Gần đây, chính phủ Quần đảo Solomon đã bắt đầu đề xuất thành lập lực lượng vũ trang riêng—một ý tưởng mà “không ai nghĩ là tốt”, nhưng Úc có thể buộc phải ủng hộ việc này vì lo ngại rằng họ sẽ tìm đến Trung Quốc để được giúp đỡ thay thế.
Trung Quốc mang đến cho các cường quốc tầm trung khôn ngoan một cơ hội để nhận được cả hỗ trợ an ninh nội bộ từ Trung Quốc lẫn viện trợ quốc phòng từ Mỹ. Đây là chiến lược mà các quốc gia như Việt Nam và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đang thực hiện. Bà Greitens nhận định rằng thế giới có thể đang tiến vào “tình thế chưa từng có tiền lệ”, nơi tồn tại “hai loại hình hỗ trợ an ninh khác nhau, chồng lấn nhau nhưng được dẫn dắt bởi các tác nhân khác nhau”. Đó sẽ là một thế giới thiên về giao dịch và yếm thế hơn, nơi nhà nước trở nên mạnh hơn, nhưng công dân lại yếu đi.
