Mười bước để Mỹ ngăn chặn chiến lược của Trung Quốc

Nguồn: Patrick Cronin, “Pushing Back Against China’s Strategy: Ten Steps for the United States”, War on The Rocks, 18/5/2015.

Biên dịch: Lê Thanh Danh | Hiệu đính: Nguyễn Thế Phương

Đây là phần thứ tư trong chuỗi bài của Patrick Cronin viết về chiến lược thống trị Châu Á -Thái Bình Dương của Trung Quốc. Xem lại ba phần trước: Bá quyền khu vực của Trung Quốc: một thước phim quay chậm, Chiến lược “đảo hoá” và tham vọng bá quyền khu vực của Trung QuốcCác nước Đông Nam Á trước nỗ lực bá quyền của Trung Quốc

Trung Quốc vừa có chiến lược mới nhằm gia tăng lợi thế quân sự của mình trong khu vực. Mặc dù lớn tiếng về việc cân bằng giữa bảo vệ chủ quyền với ổn định khu vực, đây là một chiến lược khôn khéo của Trung Quốc nhằm từ từ tiến tới bá quyền. Bằng việc nhấn mạnh rằng Trung Quốc không chỉ là cường quốc lục địa mà còn là cường quốc trên biển, chiến lược mới đề cập tới việc dịch chuyển từ phòng thủ gần bờ sang phòng thủ ngoài biển khơi: đặt trọng tâm hướng đến khả năng tác chiến biển xanh, nghĩa là Hải Quân Trung Quốc có khả năng triển khai một cách tương xứng với Hải Quân Hoa Kỳ, ít nhất là trong những vùng biển gần và phần biển phía Tây Thái Bình Dương vốn mang vị trí yếu lược đối với Trung Quốc. Qua đó, Trung Quốc ngầm cảnh báo các nước lân cận rằng đừng tập hợp sức mạnh cũng như đối đầu với một Trung Quốc đang trỗi dậy, sẵn sàng giành lấy sứ mệnh lịch sử của mình. Dù tỏ rõ lập trường cứng rắn và không khoan nhượng, chiến lược thực sự của Trung Quốc không tập trung vào đối đầu trực tiếp hay gây ra xung đột, mà vẫn trong thế tìm kiếm một vị trí thuận lợi hơn cho mình.

Vậy Hoa Kỳ cần hành động ra sao trước chiến lược tiến dần đến bá quyền của Trung Quốc ở Châu Á – Thái Bình Dương? Như đã nêu trong các phần 1, 2 và 3 của chuyên đề, Trung Quốc đang tăng cường nỗ lực loại bỏ ảnh hưởng của Washington trong khu vực bằng cách vô hiệu hóa lực lượng quân sự Hoa Kỳ thông qua chiến lược chống tiếp cận/ chống xâm nhập (A2/AD), đồng thời ngăn chặn nỗ lực hợp nhất các nước Đông Nam Á để chống lại Trung Quốc. Giờ đây nếu Hoa Kỳ tiếp tục án binh bất động thì sẽ dẫn tới nhiều hệ quả tai hại. Việc không thiết lập được các mối quan hệ láng giềng tốt đẹp trong khu vực sẽ dẫn đến nhiều tiền lệ xấu trong nỗ lực chống lại cường quyền trong tương lai.

Chiến lược đối phó của Hoa Kỳ cần đặt các đồng minh và đối tác trong khu vực vào trọng tâm chính sách. Các lợi ích quốc gia trùng lắp với nhau tạo nên một nền tảng vững chắc để chống lại các hành động ép buộc. Khi Trung Quốc phạm sai lầm và vi phạm vào nhiều qui tắc ứng xử, Hoa Kỳ cần có biện pháp khiến Trung Quốc trả giá thích hợp. Trong đó, biện pháp áp đặt chi phí ít gây thương tổn nhất là tiếp cận gián tiếp thông qua các phương diện ngoại giao, luật pháp và truyền thông. Những nỗ lực nhằm định hình tình thế của xung đột thường là các nỗ lực bền bỉ và lâu dài. Do đó, thông thường biện pháp tốt nhất nhằm kìm hãm các hành vi gây hấn là thông qua con đường ít bị cự tuyệt nhất. Câu hỏi là Washington cần phải làm gì?

1. Trang bị cho khu vực nhận thức về thực trạng hiện tại. Bước đầu tiên là tăng cường khả năng thu thập và công bố các thông tin về hoạt động của Trung Quốc trong khu vực. Quốc hội Hoa Kỳ hàng năm luôn yêu cầu báo cáo về quân đội Trung Quốc (PLA). Trong bối cảnh căng thẳng trên biển ở châu Á, Quốc hội cần mở rộng yêu cầu thu thập các thông tin này. Cụ thể, Quốc hội cần yêu cầu bộ phận phụ trách cung cấp thường xuyên, chính xác và công khai các chi tiết về các hoạt động quân sự, ngoại giao, các hoạt động pháp lý, thu thập thông tin cũng như các hoạt động có liên quan khác của Trung Quốc ở Biển Đông. Theo đó công việc của chính phủ là công khai các hoạt động này tại các diễn đàn ngoại giao khu vực như Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN+ (ADMM+). Quốc hội phải chỉ đạo Bộ Quốc phòng, phối hợp cùng Bộ Ngoại giao để xây dựng một trang web chính thức. Đóng vai trò là một nguồn thông tin tổng hợp theo thời gian thực, trang mạng này có thể được bổ sung các phân tích định kỳ, bao gồm các báo cáo hằng năm về các hoạt động trong vùng biển châu Á. Các hoạt động này không đòi hỏi phải xây dựng cơ chế mới hay cần nguồn lực dồi dào, mà có thể được tích hợp vào một cơ quan chuyên môn đã có sẵn như Viện Nghiên cứu Biển đảo Trung Quốc tại Đại học Hải chiến Hoa Kỳ hoặc Trung tâm Phân tích Hải quân. Mục tiêu chính là thu thập mọi nguồn thông tin có được nhằm đảm bảo các phân tích đáng tin cậy và có thẩm quyền cao hơn so với các cơ quan phi chính phủ khác.

2. Thành lập một trung tâm chung chia sẻ thông tin an ninh trên biển trong khu vực. Nhằm thúc đẩy các nỗ lực phòng tránh thiên tai, an toàn hàng hải, cũng như hợp tác rộng rãi trong khu vực, chính phủ Hoa Kỳ cần nhanh chóng thành lập một trung tâm phản ứng tổng hợp trong khu vực. Có nhiều cơ hội để cải thiện các nỗ lực ban đầu hiện có. Ví dụ, 20 quốc gia đã gia nhập vào Hội nghị Hợp tác Khu vực Chống Cướp biển và Cướp có vũ trang trên biển tại Châu Á năm 2004 (ReCAAP). Hội nghị đã thành lập một Trung tâm Chia sẻ Thông tin nhằm trao đổi các thông tin về cướp biển và tội phạm. Không chỉ vậy, năm 2009, Singapore thành lập một Trung tâm Phản ứng tổng hợp Thông tin với vai trò một cơ chế chia sẻ thông tin về an ninh hàng hải trong khu vực. Được đặt tại Căn cứ Hải Quân Changi tại Singapore, trung tâm này giúp mở rộng nhận thức về lĩnh vực hàng hải nhằm đối phó với nạn cướp biển, các vấn đề biên giới, an toàn và giảm nhẹ thiên tai. Cho dù trung tâm nào được ứng dụng làm đầu não chia sẻ thông tin của khu vực, Hoa Kỳ cũng cần tìm ra một biện pháp công khai thông tin mà không gặp phải ngăn cản từ quá trình đồng thuận của ASEAN. Tuy nhiên, bên cạnh việc điều khiển và đưa ra các mệnh lệnh một cách chính xác, trung tâm này cần phổ biến thông tin cho mọi chủ thể quốc tế có liên quan đến vùng biển quốc tế, đặc biệt là 18 nước thành viên của ADMM+ và các tiến trình của Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.

3. Tận dụng hình ảnh. Một bức ảnh đáng giá hơn ngàn lời nói. Những hình ảnh với số lượng và chất lượng chưa từng có như ngày nay, thông qua các phương tiện điện tử, nên được tận dụng như một hình thức hàng hóa công ở khu vực. Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương Hoa Kỳ đã đàm phán với các thành viên ASEAN về việc xây dựng một kênh hình ảnh hoạt động chung để giải quyết các thách thức toàn cầu như hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thiên tai và tìm kiến cứu nạn. Để hỗ trợ việc chia sẻ thông tin, cần phải đẩy mạnh hoạt động mua bán hình ảnh vệ tinh, nhanh chóng cho phép giải mật một cách có chọn lọc các hình ảnh vệ tinh ghi nhận lại các công trình quan trọng và hoạt động quân sự ở Biển Đông. Những hình ảnh này có thể công khai trên trung tâm chia sẻ thông tin an ninh hàng hải ở trên. Nó cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ phân tích, đảm bảo mọi người có nhiều thông tin hơn về tình hình sôi động tại Biển Đông.

4. Xây dựng một liên minh tuân thủ luật pháp. Đây là thời điểm xây dựng một liên minh các quốc gia biển sẵn sàng tình nguyện hỗ trợ thúc đẩy một bộ quy tác ứng xử mà chúng ta mong Trung Quốc một ngày sẽ chấp nhận. Điều này sẽ giúp các nước ASEAN đẩy mạnh Bộ Quy tắc Ứng xử . Thực tế, việc vận động các quốc gia có biển như Úc, Nhật và Hoa Kỳ tham gia là để giúp quốc gia giáp Biển Đông như Philippines và Việt Nam tạo được áp lực lên các thành viên ASEAN khác, buộc họ đồng ý với các điều khoản của bộ quy tắc ứng xử mà không cần chờ đợi Trung Quốc. Như vậy, một liên minh mang tinh tự nguyện có khả năng áp đặt một chi phí nhất định nào đó lên Trung Quốc vốn luôn áp dụng chiến thuật câu giờ, đồng thời khuyến khích Bắc Kinh đổi thái độ và chấp nhận bộ luật chung. Mặc dù không có một cơ quan đảm bảo thực thi, liên minh này vẫn có thể tiến hành các hoạt động như tiến hành tuần tra định kỳ để duy trì tự do trên biển và khu vực “mở” đảm bảo lợi ích chung toàn cầu. Đây không phải là và không nên là một liên minh đúng nghĩa. Điều này có thể tạo ra sự phân cực ở Châu Á mà chúng ta luôn cố tránh. Nếu không có các áp lực từ bên ngoài, Trung Quốc sẽ chẳng có động lực nào để chấp nhận bộ quy tắc ứng xử này. Một số các quy tắc hành xử chung mang tính tự nguyện có thể đóng vai trò thúc đẩy quan trọng trong trường hợp này.

5. Mở rộng chuyên môn về luật quốc tế. Chúng ta cũng phải tăng cường năng lực của Hoa Kỳ để thấu hiểu, phân tích, diễn giải, phổ biến và thảo luận luật pháp và ngoại giao quốc tế liên quan đến an ninh hàng hải, đặc biệt là ở Biển Đông. Tháng 12 năm ngoái, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã ban hành một giải thích pháp lý rất hiếm có nhưng vô cùng hữu ích về các yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông. Vì Trung Quốc chỉ muốn nêu ra các sự kiện một cách có chọn lọc, nên việc Hoa Kỳ đưa ra các phối cảnh khách quan dưới góc độ luật pháp quốc tế mang ý nghĩa quan trọng (có lẽ chủ ý đến tính khách quan, trong một động thái ngoại giao khôn khéo Hoa Kỳ chỉ bình luận về các yêu sách của Trung Quốc sau khi công bố các tài liệu tương tự về Philippines). Không chỉ Bộ Ngoại giao nên tiếp tục phát hành các tài liệu chính thức về luật hàng hải quốc tế, mà Quốc hội cũng nên bổ sung thêm các chuyên gia về luật pháp quốc tế tới các phòng ban quan trọng của Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương Hoa Kỳ. Điều này sẽ rất quan trọng trong bối cảnh chúng ta đang tìm cách hỗ trợ Philippines giải quyết các tranh chấp dưới góc độ luật pháp chứ không phải sự ép buộc. Sau khi để mất Bãi cạn Scarborough năm 2012, Philippines đã nộp đơn kiện chống lại Trung Quốc tại Tòa án Quốc tế về Luật biển. Tiến trình có phần chậm chạp đó cuối cùng cũng dần đi đến hồi kết, và một phán quyết về vấn đề đường 9 đoạn của Trung Quốc dự kiến được đưa ra vào đầu năm 2016. Tuy nhiên, phán quyết sắp tới của tòa án trọng tài chỉ có ý nghĩa quan trọng một khi chúng ta đưa ra quan điểm rằng luật pháp quốc tế cần được tôn trọng và là cách thức để giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông, thay vì hành động quân sự hóa sắp tới của Trung Quốc. Dựa vào mối tương quan này, Hoa Kỳ sẽ có cơ hội hợp tác nhiều hơn với Nhật Bản, đất nước có nhiều kinh nghiệm liên quan tới các vụ kiện dựa trên luật biển quốc tế hơn là các quốc gia khác trong khu vực.

6. Thông qua UNCLOS: Đã đến lúc Hoa Kỳ cần thông qua Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS). Đã có hơn 160 quốc gia tham gia vào Công ước này, tạo nên các luật lệ chung để quản lý các vùng biển trên thế giới. Mặc dù Thượng viện Hoa Kỳ đã không thể thông qua hiệp định, các chính quyền kế nhiệm vẫn tuân thủ UNCLOS một cách không chính thức. Mỉa mai thay, Trung Quốc là một nước đã phê duyệt UNCLOS nhưng lại từ chối tuân thủ công ước. Việc Quốc hội không phê duyệt UNCLOS chỉ làm suy yếu các nỗ lực ngoại giao nhằm huy động hỗ trợ tiếp cận dựa trên nền tảng pháp lý. Đồng thời, nó còn tạo điều kiện cho các chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm làm suy yếu uy tín của Hoa Kỳ trong vấn đề Biển Đông. Chúng ta chắc chắn sẽ phải tìm cách thích nghi với các chuyển dịch quyền lực toàn cầu. Chính vì thế, chúng ta càng cần phải cố gắng định hình một bộ các điều luật chung bao trùm lên phạm vi của các biến động đó.

7. Tăng cường tập trận và thể hiện sức mạnh: Các cuộc tập trận đúng lúc và đúng chỗ, không giống như cuộc diễn tập đổ bộ gần đây giữa Hoa Kỳ và Philippines gẫn bãi cạn Scarborough, nên được tổ chức theo chu kỳ nhằm truyền tải đầy đủ cả mối quan ngại lẫn năng lực. Tương tự, Hoa Kỳ cần cân nhắc kỹ lưỡng khi nào là thời điểm thích hợp để thực hiện các hoạt động bảo vệ tự do hàng hải. Chuyến bay trinh sát gần đây của Hoa Kỳ qua vùng trời một số đảo nhân tạo của Trung Quốc trên Biển Đông, dù vấp phải các cảnh cáo liên tiếp từ phía Hải quân Trung Quốc, là minh chứng cho cách thức một hoạt động quân sự mang tính chất hòa bình có thể được sử dụng để nhấn mạnh luật pháp quốc tế. Các hoạt động tương tự với tàu hải quân hoặc cánh sát biển cũng có thể nhấn mạnh thực tế rằng những thực thể chìm, kể cả khi được xây đắp thành đảo nhân tạo, không tạo nên chủ quyền trên cả vùng biển lẫn vùng trời xung quanh và bên trên chúng. Phương thức hoạt động này có tác dụng như một cú đấm thẳng vào thái độ hung hăng xâm lấn. Tuy nhiên, nó phải được đặt trong một khuôn khổ ngoại giao hết sức cẩn trọng, mà trong đó Hoa Kỳ cần nhấn mạnh rõ cả hai phương diện can dự lẫn kiềm chế trong chính sách của mình.

8. Củng cố năng lực đối tác: Hoa Kỳ còn rất nhiều cách thức để ngăn cản chiến thuật “lát cắt salami” và dọa nạt của Trung Quốc phát huy tác dụng. Cách thức chủ đạo và dễ dàng nhất là củng cố năng lực, liên quan tới cả lực lượng chấp pháp biển lẫn quốc phòng, giữa các quốc gia có biển trong khu vực. Ủy ban Quân vụ Thượng viện đã khôn ngoan khi bổ sung nguồn lực cho chiến lược tái cân bằng tới châu Á của Nhà Trắng bằng cách tăng mức ngân sách cho việc củng cố năng lực cho các đối tác. Quốc hội Hoa Kỳ cũng cần phải yêu cầu Lầu Năm Góc xây dựng một kế hoạch dài hạn nhằm củng cố năng lực cho các quốc gia ven biển tại Đông Nam Á. Bước đi này cần bao gồm cả các kế hoạch song phương lẫn đa phương, và các cách thức nhằm tận dụng cho được mạng lưới quan hệ xuyên Á đang phát triển ngày càng mạnh mẽ. Nổi bật trong các kế hoạch quan hệ song phương, Hoa Kỳ cần phải hoạch định rõ ràng cách thức triển khai Hiệp định Hợp tác Quốc phòng Mở rộng (Enhanced Cooperation Defense Agreement) với Philippines. Chúng ta cần cân nhắc không những tới việc luân chuyển quân đội, mà còn phải hỗ trợ Philippines củng cố năng lực về mặt con người, đặc biệt khi quốc gia này đang tìm cách phát triển các khái niệm mang tính chiến lược trong tương lai. Hoa Kỳ từng thực hiện một chương trình tương tự với Nhật Bản vào đầu những năm 1990, và ngày nay Bộ Quốc phòng Nhật Bản đã sở hữu một chiều sâu chiến lược rất lớn. Chúng ta cũng cần phải giải thích chi tiết các kế hoạch tương tự đối với Việt Nam, cụ thể như việc xây dựng một nền tảng đối thoại chiến lược vững chắc giữa hai nước. Indonesia là một cơ hội đang nổi lên khác. Nhận thức đang ngày càng gia tăng về đại dương của tân Tổng thống Joko “Jokowi” Widodo phải được nhanh chóng nắm bắt như một cơ hội để mở rộng hợp tác trên biển. Các nỗ lực hợp tác cần phải nhắm vào những vấn đề rất thiết yếu đối với Indonesia như kết nối các đảo, xây dựng cơ sở hạ tầng biển, và bảo vệ các tuyến đường thông tin liên lạc trên biển. Trong tất cả các trường hợp này, tương tự như các mối quan hệ với Malaysia, Myanamar, Brunei và Thái Lan, chúng ta cần hợp tác theo các cách tiếp cận mang tính bền vững.

9. Đào sâu tiếp cận trên mọi mặt: Trụ cột cuối cùng trong chính sách phản ứng cần tập trung vào cách thức tiếp cận, và rộng hơn là đẩy mạnh thực hiện chính sách tái cân bằng toàn diện sang châu Á. Bước đi này cần bắt đầu với các tiếp cận về kinh tế và ngoại giao, được bảo vệ một cách lặng lẽ nhưng bền vững. Về mặt kinh tế, Hoa Kỳ cần hoàn thành Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Quyền Xúc tiến Thương mại (Trade Promotion Authority – TPA) hay còn gọi là Quyền đàm phán nhanh. Hai hiệp định này rất cần thiết đối với an ninh và thịnh vượng trong tương lai của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, phát triển cách tiếp cận theo chiều sâu về kinh tế cũng đồng nghĩa rằng chính phủ phải tìm kiếm một sáng kiến phát triển dài hạn, cho phép Hoa Kỳ tiếp cận với phát triển một cách hiệu quả và tích cực hơn, thay vì bị xem như một vật cản trong quá trình phát triển kinh tế của các nước trong khu vực. Bất kỳ một nhà phân tích khách quan nào, khi so sánh giữa các sáng kiến phát triển của Hoa Kỳ (như Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong, xây dựng các nhà máy năng lượng ở Pakistan) với những hứa hẹn khổng lồ từ Trung Quốc và Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Châu Á (AIIB), dẫn đến kết luận rằng Trung Quốc là cường quốc đang trỗi dậy, còn Hoa Kỳ là cường quốc đang suy yếu. Sự hạn hẹp về trí tưởng tượng, sự chia rẽ chính trị lưỡng đảng, và sự thiếu quyết đoán cần phải nhường bước cho một phương pháp thực thi chính sách sáng tạo, nghiêm túc và dài hạn để chứng minh lý do vì sao Hoa Kỳ, các đồng minh lẫn đối tác có thể đóng góp nhiều hơn vào việc giải quyết các khó khăn, phát triển con người, và hội nhập khu vực. Thay vì tập trung chống lại Trung Quốc, phương pháp này cần nhấn mạnh tới những gì Hoa Kỳ sẽ mang đến cho khu vực. Ngay cả những công cụ quyền mực mềm cũng đòi hỏi phải có cách “tấn công” hiệu quả.

Trong khi đó, cách thức tương tác của chúng ta đối với Trung Quốc, bao gồm cả các cách tiếp cận quân sự song phương, cần được thể chế hóa và tiếp tục duy trì, dù vẫn phải đối mặt với những va chạm và chia rẽ trong những năm sắp tới. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa rằng chúng ta tương tác với họ trên tất cả các lĩnh vực. Quốc hội đã đúng khi mong muốn kiểm soát mối quan hệ quốc phòng song phương để đảm bảo sự cân bằng. Tiếp cận với Trung Quốc, bao gồm cả việc thúc đẩy các biện pháp xây dựng niềm tin hiệu quả, nên là một phần thiết yếu trong chiến lược toàn diện này. Trong khi một số người mong muốn nhanh chóng loại bỏ Trung Quốc khỏi các hoạt động giao lưu quân sự giữa hai bên, tôi lại ủng hộ việc tập trung vào chất lượng của các cách tiếp cận quân sự song phương mà chúng ta đang thực hiện. Chẳng hạn, cuộc tập trận Vành đai Thái Bình Dương hai năm một lần (RIMPAC) là một cách thức phù hợp để Hoa Kỳ khẳng định sự hiện diện và sức mạnh quân sự của mình giúp mang đến sự ổn định cho toàn khu vực và tạo ra khả năng đối phó hiệu quả với những thách thức chung, từ viện trợ nhân đạo đến hỗ trợ thiên tai, tìm kiếm cứu hộ và chống lại nạn buôn người. Các cách thức xây dựng lòng tin cần phải thiết thực và có ý nghĩa, nhưng cũng đồng thời không tạo ra một cái cớ giúp Trung Quốc tiến hành các hành động hung hăng hơn trong con mắt của Washington và khu vực. Không những thế, các bước tiến trong quan hệ quốc phòng giữa hai nước cần dựa trên nền tảng là cam kết tuân thủ các biện pháp an toàn và giảm thiểu rủi ro của quân đội Trung Quốc được tuyên bố trong chuyến thăm tháng 11 vừa qua của Tổng thống Obama.

10. Duy trì sự hiện diện mạnh mẽ: Có một câu nói mà bố vợ của tôi, cựu Phó Đô đốc Ronald J.Kurth từng thuộc nằm lòng khi ông còn giữ chức Giám đốc Học viện Hải chiến, đó là: “Chùa thì cứ cầu, nhưng thuyền thì cứ chèo” (Pray to God, But Row to Shore). Tương tự như thế, Hoa Kỳ nên tìm kiếm khả năng tiếp cận và xây dựng dựng năng lực, nhưng cũng đồng thời phải duy trì một sự hiện diện hàng hải đáng kể. Lãnh đạo mới của Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương (PACCOM), Đô đốc Harry Harris, đã đề cập tới tính chất chuyên nghiệp này của lực lượng quân đội quốc gia. Ông đã trình bày hết sức cô đọng khái niệm sức mạnh thông minh. Tuy nhiên, ông vẫn cần có các nguồn lực hỗ trợ và một số lượng hệ thống khí tài nhất định để đảm bảo Hoa Kỳ có thể hợp tác dựa trên thế mạnh. Chiến lược tái cân bằng quân sự và an ninh đòi hỏi phải duy trì sức mạnh của quân đội Hoa Kỳ, qua đó đảm bảo đủ số lượng và chất lượng quân đội để triển khai, sẵn sàng đảm nhiệm các nhiệm vụ ở một phạm vi rộng chứ không chỉ bó hẹp trong trường hợp chiến tranh. Sự hiện diện tại Singapore hiện nay là cực kỳ hữu ích và cần được duy trì. Sự hiện diện tại Australia mang ý nghĩa sống còn và cần được mở rộng trong tương lai. Sự hiện diện tại Philippines cũng cần được tăng cường, một khi Tòa án Tối cao Philippines đã phê duyệt về mặt luật pháp cho việc luân chuyển quân đội Hoa Kỳ tại đây. Tuy nhiên, Hoa Kỳ còn có thể khẳng định vị thế cường quốc truyền thống của mình trên Thái Bình Dương thông qua một khía cạnh đáng kể khác. Chúng ta có thể củng cố sự hiện diện và phạm vi tập trận của Thuỷ quân Lục chiến đóng quân tại các vùng lãnh thổ của Hoa Kỳ là đảo Guam và quần đảo Mariana. Về lâu dài, chúng ta cần phát huy lối suy nghĩ được khởi xướng bởi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Robert Work, ủng hộ đầu tư vào một chiến lược “bù đắp” lần thứ ba (công nghệ rô-bốt và tự hành – ND) để đối phó với năng lực “chống tiếp cận/chống xâm nhập” (A2/AD) ở trong khu vực.

Mười bước này đều được chia thành các cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, Hoa Kỳ sẽ cần đến nhiều nguồn lực và các bước đi cụ thể hóa hơn nữa. Các tuyên bố vô nghĩa, thiếu tính thiết thực sẽ nhanh chóng bị lật tẩy. Hoa Kỳ phải can dự nhiều hơn và được chuẩn bị tốt hơn để xây dựng sự hợp tác xuyên suốt trên toàn bộ khu vực Ấn Độ – châu Á – Thái Bình Dương. Trung Quốc có tham vọng rõ rệt là xác lập các luật lệ riêng của mình trên những vùng mà họ tự tuyên bố chủ quyền. Chúng ta cần phải tự đặt mình vào vị trí người thách thức những thứ luật lệ đó, nhằm duy trì một trật tự ổn định trên đại dương.

Patrick M. Cronin là Giám đốc cấp cao tại Chương trình An ninh Châu Á – Thái Bình Dương thuộc Trung tâm An ninh Hoa Kỳ mới và là cựu Giám đốc Viện Nghiên cứu chiến lược Quốc gia trực thuộc Đại học Quốc phòng Quốc gia Hoa Kỳ.