Lý giải chính sách của Trung Quốc đối với Triều Tiên

flag-NKorea-China_3125013b

Nguồn: Shale Horowitz, “Why China’s Leaders Benefit from a NuclearThreatening North Korea: Preempting and Diverting Opposition at Home and Abroad“, Pacific Focus, Vol. XXX, No. 1 (April 2015), 10–32.

Biên dịch: Văn Cường

Tóm tắt: Kể từ sự sụp đổ của Liên Xô và cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc sau đó của Triều Tiên, hỗ trợ về kinh tế và ngoại giao của Trung Quốc là điều rất quan trọng đối với Triều Tiên. Tại sao Trung Quốc lại đưa ra sự hỗ trợ này? Trong việc hoạch định chính sách đối ngoại, các nhà lãnh đạo Trung Quốc thời kỳ hậu Đặng Tiểu Bình đã ngày càng ưu tiên nền chính trị trong nước hơn là các lợi ích quốc gia. Điều này ngụ ý rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc có khả năng coi việc hạt nhân hóa, các nỗ lực phổ biến hạt nhân và hành động có kiểm soát của Triều Tiên là ngày càng có lợi – miễn là những hoạt động này không đi xa đến mức gây ra chiến tranh tổng lực. Các hành động của Trung Quốc, trái ngược với những tuyên bố của nước này, rất phù hợp với bài phân tích dưới đây.

Trong nhiều thập kỷ sau khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc, xung đột Triều Tiên đã định hình bởi sự trỗi dậy và suy giảm sức mạnh của Liên Xô. Sự nổi lên của Liên Xô đã dẫn đến việc thành lập một nhà nước quân sự Triều Tiên được trang bị các loại vũ khí thông thường tiên tiến. Hàn Quốc và Mỹ phải luôn sẵn sàng cho một cuộc Chiến tranh Triều Tiên thứ hai. Với việc Mikhail Gorbachev thực hiện cải cách và kèm theo đó là thu hồi viện trợ kinh tế và quân sự dành cho Triều Tiên, nền kinh tế Triều Tiên đã suy yếu và các tiềm lực quân sự thông thường của nước này đã trở nên ngày càng lạc hậu.

Thời gian trôi qua, ngày càng rõ ràng hơn là sự trỗi dậy và chuyển đổi của Trung Quốc thời kỳ Đặng Tiểu Bình và hậu Đặng Tiểu Bình cũng có tầm quan trọng như sự suy tàn và sụp đổ của Liên Xô. Sự hỗ trợ của Đặng Tiểu Bình đã giúp Triều Tiên vượt qua cuộc khủng hoảng trước mắt, và các nhà lãnh đạo hậu Đặng Tiểu Bình đã che chở cho Triều Tiên khi nước này thay thế mối đe dọa quân sự thông thường đang mờ nhạt dần bằng một mối đe dọa hạt nhân và tên lửa.

Hành vi của Triều Tiên chủ yếu phản ánh những lợi ích sống còn của chế độ dòng họ Kim cầm quyền, mà từ lâu đã tìm cách bảo toàn quyền tự trị của mình bằng cách cân bằng tầm ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Quốc. Tuy nhiên, vì việc Gorbachev rút hỗ trợ đã gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế và sự suy yếu về quân sự của Triều Tiên, Trung Quốc đã cung cấp hỗ trợ quan trọng nhất cho sự tồn vong của chế độ Kim. Do đó, hành vi của Triều Tiên nhất thiết phải bị kiềm chế bởi các lợi ích chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Dựa trên những tuyên bố của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, các nhà quan sát thường lập luận rằng Trung Quốc có một vấn đề “ông chủ-người đại diện” nghiêm trọng với Triều Tiên – với việc hành vi của Triều Tiên đã phá hoại các lợi ích của Trung Quốc và Trung Quốc phần lớn không thể kiểm soát được hành vi như thế.

Xét các lợi ích và chính sách đang tiến triển của các nhà lãnh đạo Trung Quốc hậu Mao Trạch Đông, ở đây có lập luận cho rằng hành vi của Triều Tiên chủ yếu hỗ trợ thay vì đe dọa các mục tiêu chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Có một xu hướng phân tích các lợi ích của Trung Quốc ở Triều Tiên về cơ bản có chức năng như là các lợi ích an ninh quốc gia truyền thống – chủ yếu, xét những tác động bất lợi của sự cân bằng sức mạnh quân sự của một Triều Tiên thống nhất dưới chế độ Hàn Quốc.

Tuy nhiên, chính sách đối ngoại cũng có thể được sử dụng để tăng cường tính hợp pháp chính trị trong nước cũng như sức mạnh của các chế độ và các nhà lãnh đạo chính trị đương nhiệm. Việc tập trung sự chú ý vào các xung đột với các đối thủ bên ngoài sẽ đánh lạc hướng sự chú ý của công chúng khỏi các vấn đề khó khăn trong nước mà chế độ này chủ yếu phải tự chịu trách nhiệm. Các cuộc đối đầu công khai với các nước bên ngoài cũng mang lại uy thế lớn hơn và nhiều nguồn lực hơn cho các lực lượng an ninh, và khiến các đối thủ chính trị trong nước khó khăn hơn trong việc chỉ trích các nhà lãnh đạo hiện nay.

Những chính sách đối ngoại có tính “đánh lạc hướng” như vậy có thể đặc biệt hấp dẫn đối với các chế độ hay các nhà lãnh đạo với tính hợp pháp trong nước yếu và sức mạnh tương đối mạnh mẽ ở bên ngoài. Một sự nhấn mạnh đặc biệt vào các lợi ích an ninh quốc gia truyền thống đã cung cấp một bản phân tích không hoàn chỉnh về chính sách đối ngoại của Trung Quốc ngay cả trong thời kỳ Đặng Tiểu Bình. Mặc dù Đặng Tiểu Bình duy trì thế giấu mình, sự hỗ trợ của ông dành cho Triều Tiên vẫn được lên kế hoạch, không chỉ để chặn trước những phí tổn địa chính trị của một nước Triều Tiên thống nhất, mà còn tránh hậu quả chính trị trong nước nếu chế độ Triều Tiên sụp đổ. Nói rộng hơn, chiến dịch “giáo dục lòng yêu nước” được khởi xướng trong những năm cuối của Đặng Tiểu Bình thời hậu Thiên An Môn đã thay thế chủ nghĩa cộng sản bằng chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc như là tư tưởng hợp pháp hóa trọng tâm của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).

Trong thời kỳ hậu Đặng Tiểu Bình, ban lãnh đạo Trung Quốc trở nên phân quyền và bất an hơn, và các nhà lãnh đạo nước này cần phải lo lắng nhiều hơn về việc bảo vệ quyền lực chính trị của chính mình trước các mối đe dọa cả bên trong chế độ lẫn ở cấp quần chúng. Không nhà lãnh đạo nào sau Đặng Tiểu Bình có quyền lực mạnh như vậy trong nội bộ ĐCS và Quân Giải phóng nhân dân (PLA). Mối đe dọa từ bên dưới được bộc lộ qua vụ Thiên An Môn sẽ chỉ trở nên khó kiềm chế hơn khi dân số Trung Quốc trở nên đô thị hóa hơn, được giáo dục tốt hơn, kết nối và nắm bắt thông tin nhanh hơn. Đồng thời, Trung Quốc cũng trở nên yên tâm hơn trước các mối đe dọa bên ngoài theo sau sự sụp đổ của Liên Xô và sự nổi lên tương đối của sức mạnh kinh tế và quân sự của chính Trung Quốc. Những xu hướng này ngụ ý rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc hậu Đặng Tiểu Bình được kỳ vọng sẽ tập trung ít hơn vào các lợi ích quốc gia của Trung Quốc, trong khi đặt giá trị cao hơn vào các lợi ích chính trị nội bộ có tính “đánh lạc hướng” của chính sách đối ngoại – ngay cả ở những nơi mà những lợi ích nội bộ có tính “đánh lạc hướng” như vậy sẽ mang lại các phí tổn lợi ích quốc gia truyền thống.

Tính đến cả các lợi ích quốc gia và nền chính trị có tính đánh lạc hướng trong nước, các mục tiêu cụ thể chính của chế độ ĐCSTQ ở Triều Tiên là gì? Ở đây có lập luận rằng có 6 mục tiêu chính: bảo toàn chế độ Triều Tiên; tránh chiến tranh; duy trì một bán đảo bị chia cắt; làm chệch hướng các nguồn lực và nỗ lực của các đối thủ địa chính trị và ý thức hệ bên ngoài; “Phần Lan hóa” (chính sách buộc các nước khác thân thiện với mình) hoặc trung lập hóa chế độ Hàn Quốc; và giữ được các lợi ích từ quan hệ kinh tế với Hàn Quốc, cùng với Nhật Bản và Mỹ. Bản phân tích những mục tiêu này chỉ ra rằng đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, những lợi ích của chương trình hạt nhân của Triều Tiên đã được nói giảm nhẹ so với phí tổn. Những lợi ích chính là an ninh lớn hơn của chế độ Triều Tiên và sự chuyển hướng các nguồn lực và nỗ lực của các đối thủ bên ngoài – không chỉ là các lợi ích quốc gia truyền thống mà còn các lợi ích chính trị có tính đánh lạc hướng. Phí tổn chính là khả năng các nước đối địch tăng đáng kể việc huy động quân đội của họ để đáp trả. Dường như ngay cả Đặng Tiểu Bình – người quan tâm mạnh mẽ nhất đến các lợi ích quốc gia của Trung Quốc – cũng coi thỏa hiệp này là có lợi. Đối với những người kế nhiệm của ông, phản ứng địa chính trị của các đối thủ đã trở nên ngày càng không phù hợp, và việc làm chệch hướng các nỗ lực của các đối thủ ngày càng có giá trị, do cả sức mạnh kinh tế và quân sự đang nổi lên nhanh chóng của Trung Quốc và quan trọng hơn, là do sự tập trung ngày càng tăng vào các mối đe dọa từ bên trong đối với sự tồn tại về mặt chính trị. Khi sự ưu tiên và lợi ích ròng của ban lãnh đạo này được tính đến, các mục tiêu kết hợp của Trung Quốc tại Triều Tiên dường như ngày càng được thúc đẩy bởi chương trình hạt nhân của Triều Tiên.

Chuyển từ lôgích sang bằng chứng, chỉ các tuyên bố của Trung Quốc mới ủng hộ cho ý tưởng rằng Trung Quốc đang phản đối việc hạt nhân hóa của Triều Tiên. Các hành động của Trung Quốc dường như được thiết kế để bảo vệ Triều Tiên khỏi sự trả đũa và ngăn chặn bùng nổ chiến tranh, trong khi mang lại cho Triều Tiên không gian để tiến hành các chương trình vũ khí và các nỗ lực phổ biến hạt nhân của nước này. Từ năm 2006, Triều Tiên đã gia tăng giọng điệu của mình, và quan trọng hơn là hành vi đe dọa và bạo lực của nước này. Trung Quốc đã phản ứng bằng cách nỗ lực kiềm chế Hàn Quốc cũng nhiều như kiềm chế Triều Tiên.

Điều này không có nghĩa là không có những bất đồng nghiêm trọng giữa Bắc Kinh và Bình Nhưỡng. Các chính sách của Triều Tiên đôi khi khiêu khích một cách quá mức – dường như khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc lo lắng về cuộc chiến tranh có thể vô tình nổ ra. Về mặt ngoại giao, Triều Tiên thường xuyên khiêu khích Hàn Quốc và Mỹ mà dường như không hỏi ý kiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc, trong khi vẫn dựa vào sự bảo vệ của Trung Quốc trước các phản ứng bên ngoài. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có vẻ cũng muốn Triều Tiên đi theo sự dẫn dắt của Trung Quốc trong việc cải cách nền kinh tế, chuyên môn hóa các thể chế chính trị và quân sự, và phát triển ban lãnh đạo có tính tập thể hơn. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng không e ngại thể hiện sự không hài lòng của mình về những bất đồng này. Tuy nhiên, nếu có, sự tuân thủ lớn hơn của Triều Tiên đối với những ưu tiên của Bắc Kinh sẽ dường như có khả năng làm tăng thêm mối đe dọa của Triều Tiên đối với Hàn Quốc, đặc biệt là về lâu dài.

Phần tiếp theo xem xét những thay đổi trong ưu tiên của giới lãnh đạo Trung Quốc kể từ thời Đặng Tiểu Bình, như đã trình bày trong các tuyên bố mang tính chương trình và trong hành vi chính sách đối ngoại khu vực rộng hơn. Các phần sau đó sẽ phân tích các mục tiêu chính sách đối ngoại chính của Trung Quốc trên bán đảo Triều Tiên, và mô tả việc chính sách Triều Tiên của Trung Quốc đã tìm cách để đạt được những mục tiêu này như thế nào. Bản phân tích và các bằng chứng ủng hộ lập luận rằng các chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên, việc phổ biến những công nghệ này, và trong chừng mực nào đó thậm chí cả hành vi và giọng điệu khiêu khích của họ, đã phục vụ cho lợi ích của Trung Quốc, và sẽ chỉ phục vụ mạnh mẽ hơn trong tương lai. Phần kết luận tóm tắt lại lập luận này và thảo luận những hàm ý đối với tương lai.

Các mục tiêu chính sách đối ngoại của Trung Quốc từ Đặng Tiểu Bình đến Tập Cận Bình: Từ lợi ích quốc gia đến chủ nghĩa dân tộc có tính đánh lạc hướng

Nằm bên dưới các chính sách về Triều Tiên của Trung Quốc là những ưu tiên và chiến lược về chính sách đối ngoại tổng quát hơn của Trung Quốc. Chúng ta bắt đầu bằng cách xem xét những mục tiêu và chiến lược chính sách đối ngoại chung này đã phát triển như thế nào kể từ khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền vào năm 1977.

Dưới thời Đặng Tiểu Bình, “sự ổn định và phát triển” từ bên trong đi đôi với việc nhấn mạnh vào sự ổn định ở bên ngoài. Các sáng kiến kinh tế và chính trị cấp tiến của Mao Trạch Đông – được thể hiện một cách tai tiếng nhất trong chiến dịch Đại nhảy vọt và Cách mạng văn hóa – đã nhường chỗ cho sự cầm quyền thực dụng và có tính kỹ trị của ĐCS tập trung vào sự phát triển kinh tế thân thiện với thị trường. Việc chú trọng phát triển kinh tế hướng vào trong này đòi hỏi một chính sách đối ngoại hướng tới sự ổn định và quan hệ tốt với phương Tây, nhằm tận dụng thương mại và đầu tư quốc tế để tích lũy vốn, chuyển giao công nghệ và bí quyết, nâng cao năng suất, và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đặng Tiểu Bình đã có lời phát biểu nổi tiếng về việc “che giấu sức mạnh, và không bao giờ ở vào thế nổi bật”. Các ưu tiên chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã chuyển từ chủ nghĩa quốc tế cộng sản sang các lợi ích quốc gia hẹp hơn và truyền thống hơn.

Ngoài việc bảo vệ lãnh thổ hiện có, Đặng Tiểu Bình đã tìm cách khôi phục quyền kiểm soát đối với Hong Kong, Macao và Đài Loan. Nhưng ông làm việc đó theo một phong thái ít gây phá hoại nhất cho những nỗ lực phát triển kinh tế, sử dụng “cây gậy” là áp lực chính trị và ngoại giao, còn “củ cà rốt” là chính sách “một nước, hai chế độ”. Hong Kong và Macao đã bị ép trở lại chủ quyền của Trung Quốc một cách hòa bình theo một hình thức cho thấy một con đường dễ chấp nhận hơn dành cho mục tiêu chính, Đài Loan. Hơn nữa, Đặng Tiểu Bình không ngần ngại trừng phạt các đối thủ, hoặc tăng cường sức mạnh các đồng minh địa phương chống lại các đối thủ khu vực. Một cuộc chiến tranh “trừng phạt” chớp nhoáng đã được tiến hành chống lại Việt Nam, nước đã lật đổ chế độ Khmer Đỏ đồng minh của Trung Quốc ở Campuchia và ngả về phía Moskva. Trung Quốc đã cung cấp sự hỗ trợ sâu rộng và cốt yếu cho tất cả các mặt chủ yếu của chương trình vũ khí hạt nhân của Pakistan, bên cạnh việc hỗ trợ quân sự thông thường và viện trợ kinh tế. Sự hỗ trợ mới dành cho Triều Tiên sau khi Gorbachev rút viện trợ, như được thảo luận dưới đây, cũng phù hợp với mô hình này. Trong khi Đặng Tiểu Bình không từ bỏ các tuyên bố lãnh thổ của Trung Quốc ở biển Hoa Đông và Biển Đông (bao gồm quần đảo Điếu Ngư/Senkaku và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa), ông đã đưa ra ý kiến đặt những vấn đề này sang một bên để tập trung vào hợp tác kinh tế. Do đó, Đặng Tiểu Bình đã tránh xung đột trực tiếp với Mỹ và các đồng minh của nước này – đặc biệt là Nhật Bản và Philippines. Đồng thời, ông cũng tăng cường hỗ trợ cho các đồng minh của chính Trung Quốc, và không ngần ngại đối đầu hoặc thậm chí chiến đấu với những đối thủ bên ngoài yếu hơn không quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của Trung Quốc.

Sau khi Đặng Tiểu Bình củng cố quyền lực vào cuối những năm 1970, quyền lãnh đạo của ông bên trong chế độ ĐCS gần như không thể nghi ngờ – theo một cách giống với Mao Trạch Đông hơn là những người kế nhiệm ông. Đặng Tiểu Bình liên tục thanh trừng những đối thủ mà ông coi là các mối đe dọa và cải tổ các phụ tá cấp cao trên danh nghĩa trong đảng của mình, trong khi xử lý việc chuyển đổi quy mô lớn sứ mệnh và các chính sách của ĐCS. Những cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình và việc nới lỏng các quyền kiểm soát có tính xâm phạm theo truyền thống của Đảng đối với cuộc sống thường nhật đã kéo theo các rủi ro chính trị nghiêm trọng, và do đó được nhìn nhận một cách hợp lý là được thúc đẩy bởi tư tưởng của Đặng Tiểu Bình về các lợi ích quốc gia của Trung Quốc hơn là bởi một mong muốn bảo toàn quyền lực chính trị cá nhân hay nguyên trạng ý thức hệ.

Cùng lúc đó, Đặng Tiểu Bình cũng nhấn mạnh vào vai trò lãnh đạo tiếp tục của ĐCS như một công cụ phòng vệ và phát triển của Trung Quốc. Do đó, ông đã quyết định sử dụng vũ lực đàn áp các cuộc biểu tình Thiên An Môn năm 1989. Sau sự kiện Thiên An Môn, Đặng Tiểu Bình đã làm tiêu tan mọi nỗ lực của các đảng viên bảo thủ đẩy lùi các cải cách kinh tế, khôi phục ý thức hệ Maoít và cộng sản chủ nghĩa. Trong khi tái xác nhận sự ủng hộ dành cho các cải cách thị trường với chuyến tuần du về phía Nam vào năm 1992, ông đã đặt một trọng tâm mới vào việc “giáo dục lòng yêu nước” dân tộc chủ nghĩa như một sự thay thế cho ý thức hệ cộng sản. Nỗ lực tuyên truyền quy mô lớn và đa tầng này, trong đó tập trung vào điều căn bản thông qua giáo dục đại học, nhưng cũng bao gồm truyền thông đại chúng, PLA, các thể chế của Đảng và nhà nước và văn hóa quần chúng, gắn lại cho ĐCS chức danh như là người bảo vệ dân tộc Trung Quốc chống lại các mối đe dọa thâm hiểm từ bên ngoài, đặc biệt là từ phương Tây. Trong suốt những năm 1980, Đặng Tiểu Bình đã cắt giảm đáng kể chi tiêu quốc phòng – cho thấy sự nhấn mạnh vào việc đầu tư cho tăng trưởng kinh tế và một chính sách đối ngoại hướng vào trong. Nhưng sau sự kiện Thiên An Môn, khi các phần tử PLA trung thành đã bảo vệ được chế độ ĐCS, chi tiêu quốc phòng đã tăng nhanh chóng – tạo nên xu hướng đã tiếp diễn cho đến ngày nay.

Lo sợ rằng một ban lãnh đạo tập trung cao có thể dẫn đến chủ nghĩa cấp tiến về ý thức hệ hồi phục lại, những đe dọa đối với các cải cách kinh tế của mình, hoặc các xu hướng gây mất ổn định khác, Đặng Tiểu Bình đã lập ra một hệ thống lãnh đạo và kế nhiệm phân quyền hơn trong nội bộ ĐCS. Đặng Tiểu Bình đã thông qua quy định về nghỉ hưu và kế nhiệm có trật tự, giới hạn nhiệm kỳ 10 năm cố định, và tự tay lựa chọn không chỉ nhóm lãnh đạo kế nhiệm đầu tiên, do Giang Trạch Dân đứng đầu, mà còn nhóm lãnh đạo thứ hai dưới quyền Hồ Cẩm Đào.

Không người kế nhiệm nào của Đặng Tiểu Bình có được trình độ kinh nghiệm, uy tín cá nhân hay quyền lãnh đạo của ông trong nội bộ ĐCS, PLA hoặc các thể chế nhà nước khác. Tất cả phải đối mặt với một nhu cầu đang gia tăng là phải tính đến cả các nhà lãnh đạo cấp cao khác, các thể chế và lợi ích mà họ đại diện, và một quần chúng ngày càng đô thị hóa và phức tạp. Việc mất đi quyền hành cá nhân này có xu hướng gia tăng theo thời gian, khi các nhà lãnh đạo trở nên xa rời thời đại và sự bảo trợ của Đặng Tiểu Bình. Sự bất an về chính trị đặc biệt tăng đối với Tập Cận Bình và các nhà lãnh đạo kế tiếp. Vì Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào là do Đặng Tiểu Bình lựa chọn, sự cầm quyền của họ không dễ bị tách khỏi sự đồng thuận rộng hơn của giới tinh hoa ĐCS theo hướng có lợi cho trật tự chính trị mới của Đặng Tiểu Bình. Tập Cận Bình và những người kế nhiệm ông không có được tính hợp pháp có cơ sở này, và do đó vốn còn không an toàn hơn Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào.

Giang Trạch Dân bám sát với kịch bản do Đặng Tiểu Bình đưa ra. Các sáng kiến mới của ông thường tìm cách củng cố các sáng kiến của Đặng Tiểu Bình. Giang Trạch Dân đã tiếp tục bổ sung các chính sách thể chế hóa con đường phát triển theo hướng thị trường. Trong chính sách đối ngoại, Giang Trạch Dân đã thực hiện một số bước đi đầu tiên xa rời khỏi chính sách đối ngoại “giấu mình chờ thời”, ưu tiên ổn định và tăng trưởng của Đặng Tiểu Bình. Trung Quốc gần như được xem là một “nước lớn có trách nhiệm” và chủ động hơn, với mối quan tâm lớn hơn đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Giang Trạch Dân vẫn quan ngại nhiều nhất với các vấn đề lãnh thổ hạn hẹp hơn được Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh, đặc biệt là Đài Loan. Các cuộc thử nghiệm tên lửa năm 1995-1996 quanh Đài Loan đã tìm cách cảnh báo Mỹ đừng có hỗ trợ Đài Loan, và để làm mất uy tín của Tổng thống theo đường lối cải cách của Đài Loan, Lý Đăng Huy, trong thời gian trước khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống năm 1996. Giang Trạch Dân tiếp tục khẳng định các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc chống lại Việt Nam, giết hại hàng chục thủy thủ Việt Nam trong khi chiếm đoạt Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) gần quần đảo Trường Sa.

Giang Trạch Dân cũng bắt đầu áp dụng một lập trường đối đầu hơn với các đồng minh của Mỹ. Ông đã chỉ huy nhiều cuộc xâm nhập bất ngờ thường xuyên hơn bởi các tàu hải quân và tàu khoa học vào các vùng biển tranh chấp xung quanh quần đảo Điếu Ngư/Senkaku. Tại Biển Đông, Giang Trạch Dân đã chiếm đoạt Đá Vành Khăn (Mischief Reef) từ tay Philippines, và từ chối các nỗ lực của ASEAN giải quyết các tranh chấp lãnh thổ trong một khuôn khổ đa phương.

Về nội bộ, Hồ Cẩm Đào đã tìm cách duy trì tăng trưởng kinh tế trong khi làm dịu đi các khía cạnh gai góc của nó. Hồ Cẩm Đào ưu tiên sự phát triển khu vực thậm chí nhiều hơn cùng với quyền kiểm soát lớn hơn đối với nạn tham nhũng và ô nhiễm. Cả trong các tuyên bố và hành động, đã có những thay đổi chính sách đối ngoại quan trọng, mặc dù những thay đổi này chủ yếu đều diễn ra sau này trong nhiệm kỳ của Hồ Cẩm Đào (2002-2012) với tư cách là nhà lãnh đạo tối cao. Vào tháng 7/2009, Hồ Cẩm Đào, trong khi tán thành nguyên tắc “giấu mình chờ thời” của Đặng Tiểu Bình, cũng ủng hộ sự cần thiết phải “chủ động làm điều gì đó”. Đây là lần đầu tiên những đường lối chỉ đạo chính sách đối ngoại của Đặng Tiểu Bình được sửa đổi. Sách Trắng vào tháng 9/2011, “Phát triển hòa bình của Trung Quốc”, nêu rõ Trung Quốc sẽ “gánh vác trách nhiệm quốc tế hơn nữa khi sức mạnh tổng hợp của nước này gia tăng”.

Hồ Cẩm Đào ban đầu theo đuổi một chính sách Đài Loan thận trọng hơn so với Giang Trạch Dân. Ông đã giữ khoảng cách với chính quyền Đảng Dân Tiến (DPP) của Trần Thủy Biển, nhưng không lặp lại cuộc khủng hoảng và leo thang quân sự của Giang Trạch Dân. Sau năm 2008, ông đã phát triển quan hệ tương đối hài hòa với chính quyền Quốc Dân Đảng (KMT) của Mã Anh Cửu.

Một tín hiệu sớm của sự thay đổi là phong trào công chúng năm 2005 chống lại Nhật Bản, được phát động để phản ứng trước việc một cuốn sách giáo khoa Nhật Bản đã mập mờ không lên án các chính sách thời Chiến tranh thế giới thứ 2 của Nhật Bản. Trong khi phong trào này chắc chắn đã phản ánh tình cảm thực sự của dân chúng, Nhà nước Trung Quốc vẫn quyết định cho phép hoạt động trực tuyến, các cuộc biểu tình và bạo động để huy động ý kiến quần chúng trong hàng tuần lễ đến một mức độ cao, và sau đó chỉ áp đặt các giới hạn để tránh một cuộc đối đầu nghiêm trọng hơn.

Sau cuộc va chạm vào tháng 9/2010 giữa một tàu đánh cá Trung Quốc và một tàu bảo vệ bờ biển Nhật Bản bên trong vùng lãnh hải của quần đảo Điếu Ngư/Senkaku, Trung Quốc đã phản ứng trước việc Nhật Bản bắt giữ tàu trưởng bằng cách bắt 4 người Nhật ở Trung Quốc, đình chỉ xuất khẩu đất hiếm sang Nhật Bản, và cho phép các cuộc biểu tình chống Nhật Bản tiếp tục tại một số thành phố của Trung Quốc cùng với một chiến dịch lớn phản đối hàng hóa Nhật Bản. Sau khi Nhà nước Nhật Bản tính đến nay đã mua 3 hòn đảo thuộc sở hữu tư nhân vào tháng 9/2012, các cuộc biểu tình phản đối Nhật Bản và tẩy chay kinh tế quy mô lớn một lần nữa diễn ra trên toàn Trung Quốc. Hồ Cẩm Đào đã gia tăng đáng kể các cuộc xâm nhập bất ngờ trên biển gần quần đảo Điếu ngư/Senkaku – với 4 cuộc xâm nhập lãnh thổ và 327 cuộc xâm nhập vào vùng tiếp giáp từ tháng 9-11/2012, những tháng cầm quyền cuối cùng Hồ Cẩm Đào. Các chính sách về Nhật Bản của Hồ Cẩm Đào rất đặc biệt. Ông đã vượt xa các nhà lãnh đạo trước của ĐCS trong việc vận động dư luận Trung Quốc chống lại Nhật Bản. Ông đã phản ứng trước những bất đồng với Nhật Bản bằng các biện pháp làm leo thang xung đột đáng kể. Hồ Cẩm Đào không tránh né việc đối đầu để bảo vệ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Thay vào đó, ông đã đảo ngược tình thế bằng cách khởi xướng các áp lực về kinh tế với Nhật Bản, trong khi dường như không đếm xỉa đến những rủi ro của việc trả đũa kinh tế của Nhật Bản.

Trung Quốc cũng trở nên quyết đoán hơn tại các vùng ngoại vi phía Đông Nam và phía Nam. Từ giữa những năm 2000, tại Biển Đông, đã có những nỗ lực lớn hơn để áp đặt quyền kiểm soát độc quyền hơn của Trung Quốc, và kết quả là các cuộc đối đầu thường xuyên hơn. Hải quân PLA đã có các cuộc va chạm mới với các tàu của Việt Nam, và chiếm giữ Bãi Scarborough\Hoàng Nham từ tay Philippines. PLA có một hồ sơ dài các cuộc xâm nhập dọc theo Đường kiểm soát thực sự vào lãnh thổ của Ấn Độ. Tuy nhiên, các cuộc xâm nhập đã gia tăng một cách đáng chú ý từ năm 2008.

So sánh với Giang Trạch Dân, khi đó Hồ Cẩm Đào đã trở nên quyết đoán hơn đối với một loạt vấn đề lãnh thổ. Ông cũng đã đảo ngược chiến lược định tính truyền thống của Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân. Hồ Cẩm Đào đã không đưa ra được sáng kiến lớn nào về vấn đề Đài Loan, trong khi liên tục và công khai đối đầu với Nhật Bản, đồng minh mạnh mẽ và quan trọng nhất của Mỹ.

Các hành động của Hồ Cẩm Đào có cả các nguyên nhân về lợi ích quốc gia và nguyên nhân “đánh lạc hướng” trong nước. Hồ Cẩm Đào sử dụng sức mạnh tương đối đang gia tăng của Trung Quốc để nhấn mạnh các tuyên bố chủ quyền đã có từ lâu một cách hung hăng hơn, trong khi đưa ra một đòi hỏi mang tính dân tộc chủ nghĩa có tính đánh lạc hướng mạnh mẽ hơn đối với dư luận vốn đang bồn chồn cũng như đối với PLA và các nhánh khác của ĐCSTrung Quốc và nhà nước. Tuy nhiên, xem xét vấn đề lợi ích quốc gia, việc hối thúc đồng thời tất cả các tuyên bố chủ quyền không có ý nghĩa chiến lược, bởi điều này có xu hướng thống nhất các mục tiêu trong một liên minh phòng thủ chung với Mỹ và với nhau. Cũng không có ý nghĩa chiến lược khi hối thúc các tuyên bố chủ quyền trước các đối thủ mạnh hơn ngay từ đầu, đặc biệt nếu sự cân bằng quyền lực đang thay đổi sẽ cải thiện các triển vọng làm điều đó trong tương lai. Cuối cùng, nếu sự phát triển kinh tế trong nước là một ưu tiên quan trọng hơn cả, tốt nhất là phải tránh những va chạm quá mức với các đối tác kinh tế quan trọng nhất của nước này. Những cân nhắc này chắc có thể giải thích lý do tại sao Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân ít hăng hái nhất trong việc thúc ép các yêu sách của họ trước Nhật Bản và các đồng minh khác của Mỹ.

Hành vi của Hồ Cẩm Đào dường như phản ánh hai tính toán cơ bản: Hồ Cẩm Đào và các nhà lãnh đạo dân sự khác quan tâm nhiều đến các lợi ích chính trị trong nước có tính đánh lạc hướng hơn là thực sự thắng thế trong các tranh chấp lãnh thổ khác nhau. Và các đối thủ của Trung Quốc trừ Mỹ lại quá yếu hoặc không thích xung đột để có thể chống lại bằng quân sự theo một cách đe dọa nghiêm trọng hoặc làm suy yếu Trung Quốc, trong khi Mỹ sẽ tránh làm như vậy vì nước này không có các lợi ích lãnh thổ trực tiếp bị đe dọa. Các biện pháp trừng phạt kinh tế đột ngột và có ảnh hưởng sâu rộng dành cho Trung Quốc khó có khả năng xảy ra vì những lý do tương tự. Thay vào đó những xích mích này có khả năng hơn làm giảm đầu tư nước ngoài và tăng các rào cản thương mại nước ngoài trong dài hạn hơn. Vì vậy, khó có khả năng có bất kỳ bất lợi trước mắt nào ngoài một liên minh phòng thủ mạnh mẽ hơn, đầu tư nhiều nguồn lực hơn trong các hoạt động phòng thủ chung. Trong khi một liên minh phòng thủ được tăng cường như vậy có thể khiến Trung Quốc khó khăn hơn trong việc chiếm ưu thế trong các tranh chấp lãnh thổ khác nhau, nó có thể được miêu tả như một “sự bao vây” và “gây hấn của nước ngoài”, và do đó có xu hướng củng cố các ưu thế chính trị có tính đánh lạc hướng trong nước.

Dưới thời Tập Cận Bình, các chính sách đối đầu hơn của giai đoạn cuối thời kỳ Hồ Cẩm Đào còn được đẩy xa hơn. Nói một cách hoa mỹ, “Giấc mộng Trung Hoa” của Tập Cận Bình rõ ràng đã mang lại cho sự vĩ đại chung của quốc gia một ưu thế lớn hơn cùng với phát triển kinh tế như một nguồn cốt lõi cho tính hợp pháp của ĐCS. Tập Cận Bình đã duy trì nhịp độ xâm nhập cao gần quần đảo Điếu Ngư/Senkaku được khởi xướng trong 2 tháng cuối nhiệm kỳ của Hồ Cẩm Đào. Trong năm 2013, Trung Quốc đã tuyên bố một Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) bao trùm cả quần đảo Điếu Ngư/Senkaku, như một phần của một khu vực rộng lớn không đối xứng mà cũng bao gồm cả nhiều phần của các ADIZ đã tồn tại từ lâu của Hàn Quốc và Đài Loan và một bãi đá ngầm tranh chấp với Hàn Quốc. Trong một vụ việc ở đây, một lần nữa lại là mô hình đối đầu đồng thời với nhiều đối thủ, có xu hướng kéo họ lại gần nhau hơn trong việc phòng thủ chung. Tại Biển Đông, Tập Cận Bình đã tiếp tục mở rộng và củng cố quyền kiểm soát của Trung Quốc trước các tuyên bố chủ quyền của Philippines và Việt Nam. Gây tranh cãi nhất là giàn khoan dầu khổng lồ ngoài khơi mà Trung Quốc đã triển khai giữa quần đảo Hoàng Sa và Việt Nam trong năm 2014. Một cuộc đối đầu kéo dài hàng tháng trời giữa các tàu Trung Quốc và Việt Nam đã diễn ra sau đó. Trong năm 2013, Trung Quốc đã điều một đội quân lớn vào những vùng do Ấn Độ kiểm soát trong khu vực biên giới tranh chấp. Thay vì rút quân nhanh chóng như từng làm trước đó, những binh lính này vẫn ở lại hàng tuần lễ, gây ra thế đối đầu về quân sự và ngoại giao.

Tóm lại, những cải cách của Tập Cận Bình đã khởi động hai động lực dẫn dắt sự thay đổi trong chính sách đối ngoại. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải chịu trách nhiệm cho sự tăng trưởng kinh tế ngày càng mang tính tự lực, sức mạnh tương đối ở bên ngoài đang gia tăng và các mối đe dọa từ bên ngoài suy giảm, kết hợp với sự bất an trong công chúng trong nước ngày càng tăng và một ban lãnh đạo có tính tập thể và bè phái hơn bên trong chế độ ĐCS. Cả sức mạnh tương đối ở bên ngoài gia tăng lẫn các thách thức và ganh đua trong nước lớn hơn có xu hướng dẫn đến những chính sách đối ngoại quyết đoán hơn. Khi sức nặng tương đối của các thách thức bên trong tăng lên, chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã chuyển từ việc theo đuổi các lợi ích quốc gia cốt lõi một cách thận trọng và hợp lý về mặt chiến lược theo phong cách Đặng Tiểu Bình, sang một sự quyết đoán tổng quát hơn và thất sách về mặt chiến lược đối với tất cả các tranh chấp lãnh thổ. Xu hướng này không nhất thiết là thẳng băng, vì nó phụ thuộc phần lớn vào sở thích của các thế hệ lãnh đạo kế tiếp nhau. Do đó, sự chuyển hướng về chính sách đối ngoại của Giang Trạch Dân khỏi Đặng Tiểu Bình hạn chế hơn, trong khi những thay đổi của Hồ Cẩm Đào so với Giang Trạch Dân lại sâu rộng hơn. Tuy vậy, xu hướng chung là rõ ràng và có khả năng còn tiếp tục vì nó có ý nghĩa về mặt chính trị đối với các nhà lãnh đạo đang phải đối mặt với những thách thức từ bên trong ngày càng làm lu mờ những thách thức bên ngoài. Trung Quốc đã đi cả một chặng đường dài từ “che giấu sức mạnh” và “không bao giờ nổi bật”.

Các mục tiêu của Trung Quốc ở Triều Tiên: Lôgích

Kể từ cuối những năm 1980, Triều Tiên đã phát triển vũ khí hạt nhân và tên lửa tầm xa đồng thời phổ biến những năng lực này, trong khi tiếp tục nhắm vào Hàn Quốc với các mối đe dọa khủng khiếp về việc phá hủy và các cuộc tấn công cường độ thấp không thường xuyên. Sự kiềm chế chính mà Triều Tiên thực hiện là không đi xa đến mức phát động một cuộc chiến tranh toàn diện, và theo đó điều chỉnh các hành động khiêu khích của mình cho phù hợp.

Trung Quốc đã phản ứng như thế nào? Đặng Tiểu Bình đã giúp Triều Tiên bằng viện trợ kinh tế, nhưng Trung Quốc vẫn tránh thu hút sự chú ý trong các tranh chấp ngoại giao quốc tế về chương trình hạt nhân của Triều Tiên. Dưới thời Giang Trạch Dân và những người kế nhiệm của ông, Triều Tiên đã tiếp tục nhận được những khoản trợ cấp lớn, thương mại và đầu tư của Trung Quốc đã mở rộng đáng kể. Trung Quốc đã bắt đầu tham gia các hoạt động ngoại giao quốc tế – Đàm phán bốn bên, và sau đó là Đàm phán sáu bên. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tuyên bố phản đối chương trình hạt nhân của Triều Tiên. Nhưng Trung Quốc chưa bao giờ sử dụng đòn bẩy kinh tế đáng kể của mình trong các nỗ lực trừng phạt rõ ràng, có tác động sâu rộng và kéo dài để gây sức ép buộc Triều Tiên chấm dứt các chương trình hạt nhân và tên lửa của nước này, hoặc các hoạt động phổ biến những tiềm lực này. Thay vào đó, Trung Quốc đôi lúc có vẻ như sử dụng sức ép kinh tế ngắn ngủi và có giới hạn, có lẽ là để cảnh báo Triều Tiên không được cho phép những căng thẳng đẩy bán đảo này đến quá gần chiến tranh, và đôi khi để báo hiệu sự không hài lòng về những bất đồng song phương khác.

Để hiểu các chính sách về Triều Tiên của Trung Quốc, sẽ là hữu ích khi xem xét các mục tiêu chủ yếu của các nhà lãnh đạo Trung Quốc ở Triều Tiên, và đánh giá cách mà họ coi những chính sách của mình như là phản ứng tốt nhất được thực hiện để đạt được những mục tiêu này. Trong thời kỳ hậu Mao Trạch Đông, các nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như có 6 mục tiêu chủ yếu trên đấu trường Triều Tiên.

Bảo vệ Triều Tiên

Các nhà lãnh đạo ĐCS Trung Quốc muốn chống đỡ cho chế độ Triều Tiên, cả vì những lý do chính trị trong nước lẫn những lý do địa chính trị. Trong nước, cảnh tượng về một Hàn Quốc tự do và giàu có hơn nuốt chửng một Triều Tiên hà khắc và bần cùng hơn sẽ là một sự kiện không được hoan nghênh. Thứ hai, có một sự đầu tư và sự hi sinh nhân lực được nhiều người biết đến mà Trung Quốc đã thực hiện trong suốt Chiến tranh Triều Tiên để cứu vãn Triều Tiên (CHDCND Triều Tiên). Có thể hiểu rõ hơn những bất lợi về địa chính trị của việc một nước Triều Tiên sụp đổ. Chế độ Hàn Quốc sẽ cai trị một nhà nước thống nhất và hùng mạnh hơn nhiều. Tìm cách để bảo toàn quyền tự trị đối với kẻ thù trong lịch sử và gần đây hơn là Trung Quốc, và ông chủ đế quốc cũ là Nhật Bản, một Triều Tiên thống nhất và dân chủ sẽ có xu hướng vẫn giữ các quan hệ gần gũi với Mỹ.

Tránh chiến tranh

Trung Quốc cũng muốn tránh chiến tranh, điều có thể dẫn đến hoặc sự sụp đổ của Triều Tiên hoặc một xung đột đưa PLA chống lại các lực lượng Mỹ và Hàn Quốc. Những bất lợi của việc Triều Tiên sụp đổ vừa được thảo luận. Những hậu quả của một cuộc chiến tranh Triều Tiên thứ hai còn khó tính toán hơn nhiều. Kịch bản tốt nhất đối với Trung Quốc sẽ là một cuộc chiến ngắn trong đó sự can thiệp của PLA sẽ chống đỡ một nhà nước Triều Tiên chư hầu bên trong đường biên giới hiện nay của nước này mà không cần giao chiến quy mô lớn. Ngay cả một xung đột hạn chế và “gọn gàng” như vậy cũng sẽ gây ra bất ổn kinh tế nghiêm trọng trong ngắn hạn đối với Trung Quốc và phần còn lại của thế giới. Một cuộc chiến kịch liệt và bất phân thắng bại có thể gây rối loạn kinh tế và phân cực hóa địa chính trị lâu dài hơn và lớn hơn nhiều. Những chi phí tiềm tàng đối với Trung Quốc sẽ rất lớn, và sẽ thể hiện những thách thức nghiêm trọng đối với tính hợp pháp trong nước của ĐCS.

Đánh lạc hướng kẻ thù bên ngoài

Việc chống đỡ cho Triều Tiên cũng cho phép Trung Quốc sử dụng Triều Tiên để làm chệch hướng những nguồn lực và nỗ lực của các đối thủ của mình khỏi những tranh chấp với chế độ ĐCS Trung Quốc. Việc làm chệch hướng những nỗ lực của các đối thủ này còn lớn hơn và đa phương diện hơn nó vẫn thường được nhìn nhận. Trong chừng mực mà Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ phải huy động các nguồn lực để kiềm chế và có thể là chống lại Triều Tiên, những nguồn lực đó sẽ đều không có sẵn để sử dụng trong các xung đột tiềm tàng với Trung Quốc – dù ở biển Hoa Đông, về vấn đề Đài Loan, hay tại Biển Đông. Cần phải bổ sung việc Triều Tiên phổ biến hạt nhân, tên lửa và các công nghệ quân sự khác tới các nước như Iran và Syria. Mỹ buộc phải chuyển hướng các nguồn lực bổ sung và quan trọng để đối phó với những mối đe dọa phổ biến vũ khí này.

Có khả năng rằng việc làm lệch hướng các nguồn lực quân sự đó sẽ gây phản tác dụng đối với Trung Quốc, vì những khả năng được phát triển để đối phó với Triều Tiên và Iran có thể được triển khai để chống lại Trung Quốc. Điều này có thể xảy ra, nhưng có thể không nghiêm trọng đến thế. Mỹ đang cắt giảm chi tiêu quân sự. Nước này khó có khả năng tăng chi tiêu đáng kể khi không có một xung đột quân sự thông thường, hay ít nhất là những vụ va chạm quy mô nhỏ đặt Đông Á vào tình trạng chiến tranh. Những đối thủ khu vực, như Hàn Quốc, và đặc biệt là Đài Loan và Nhật Bản, có những tiềm năng thế mạnh lớn hơn trong chi tiêu quân sự. Nhưng một lần nữa, dường như khó có khả năng những nước này sẽ tăng đáng kể chi tiêu nếu không có một cuộc xung đột quy mô lớn hoặc một sự đe dọa nội tại về xung đột quy mô lớn.

Căn bản hơn, các nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như không cảm thấy bị đe dọa bởi sự gia tăng tiềm tàng chi tiêu quân sự của các đối thủ. Các đối thủ của Trung Quốc sợ bất kỳ xung đột trực tiếp nào với Trung Quốc ngay cả trong những năm đầu thập niên 1950, khi sức mạnh kinh tế và quân sự tương đối của Trung Quốc còn yếu hơn nhiều. Tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng tương xứng trong chi tiêu quân sự tiếp tục xây dựng sức mạnh tương đối của Trung Quốc tới mức cao hơn nhiều. Hơn nữa, việc các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảm thấy tự tin rằng họ có thể kiểm soát mức độ va chạm và khi cần thiết sẽ hạ mức đó xuống để tránh chiến tranh. Và một lần nữa, bất kỳ sự gia tăng nào trong công cuộc chuẩn bị của các nước đối thủ cũng có thể bị rút xuống vì những lợi ích đánh lạc hướng trong nước.

Ngoài việc làm chệch hướng các năng lực quân sự của các đối thủ, còn có sự làm chệch hướng rõ ràng các nỗ lực chính trị và ngoại giao của các đối thủ này. Nếu Mỹ đang bận rộn nài nỉ Trung Quốc giúp “kiềm chế” hay “trừng phạt” Triều Tiên hoặc Iran, nước này ít có khả năng hơn tiêu hao các nguồn lực ngoại giao và thời gian vào việc phá giá đồng tiền của Trung Quốc, các khoản trợ cấp cho các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và liên doanh nhà nước, sách nhiễu các công ty đa quốc gia nước ngoài, coi thường quyền sở hữu trí tuệ, các quy định bắt buộc về chuyển giao công nghệ, tình báo mạng và trộm cắp trên mạng và tham nhũng. Việc làm chệch hướng về chính trị và ngoại giao như vậy có lẽ có giá trị đối với chế độ ĐCS Trung Quốc hơn bất kỳ việc làm chệch hướng quân sự nào, vì chế độ ĐCS nhìn nhận một mối đe dọa còn lớn hơn nhiều từ bên trong thay vì từ bên ngoài.

Tránh sự thống nhất

Chắc hẳn, Trung Quốc kể từ thời Đặng Tiểu Bình không muốn Triều Tiên đánh bại và thâu tóm Hàn Quốc. Tất nhiên, sức mạnh kinh tế và quân sự của Hàn Quốc và liên minh với Mỹ khiến kết quả này rất khó xảy ra. Nhưng ngay cả khi đạt được điều đó, giá trị của nó đối với Trung Quốc vẫn còn đáng ngờ. Nó có thể liên quan đến cả chiến tranh, với phí tổn cho cuộc chiến đã được bàn đến. Ngay cả nếu đạt được điều này mà không cần đến một cuộc chiến tranh tốn kém, việc đó sẽ có nguy cơ tạo ra “một Việt Nam khác”. Quan hệ gay gắt giữa Triều Tiên và Nhật Bản có thể tạo nên một Triều Tiên thống nhất dưới chế độ miền Bắc ít thù địch hơn. Tuy nhiên, một Triều Tiên thống nhất như vậy sẽ gần như chắc chắn là một người canh gác hết mình cho nền độc lập. Về lâu dài, sẽ rất khó ngăn cản nước này phát triển theo hướng của Việt Nam, hoặc thậm chí trải qua dân chủ hóa từ bên trong. Duy trì nguyên trạng, và hưởng lợi từ việc làm chuyển hướng kết hợp các nguồn lực và nỗ lực của các kẻ thù, dường như ít rủi ro hơn và thuận lợi hơn.

“Phần Lan hóa” Hàn Quốc

Lý tưởng mà nói, Trung Quốc muốn “Phần Lan hóa” Hàn Quốc – để lôi kéo Hàn Quốc vào một vị thế địa chính trị trung lập hơn. Điều này sẽ liên quan đến việc đẩy Mỹ ra khỏi Triều Tiên, hoặc ít nhất giảm thiểu sự hiện diện và cam kết của Mỹ tại Hàn Quốc. Đẩy lui được mối đe dọa “phương Tây”, Trung Quốc sẽ yên tâm hơn về cả an ninh quân sự bên ngoài và tính hợp pháp chính trị trong nước. Con đường rõ ràng nhất để trung lập hóa Hàn Quốc là cung cấp các dịch vụ của Trung Quốc như một người đảm bảo hòa bình trên bán đảo, bằng cách “kiềm chế” Triều Tiên để đổi lấy việc Hàn Quốc đồng ý tự tránh xa Mỹ. Gần đây hơn, Trung Quốc cũng tìm cách lập ra một mặt trận chung với Hàn Quốc chống lại Nhật Bản.

Bảo toàn quan hệ kinh tế

Cuối cùng, Trung Quốc muốn bảo toàn và tăng cường quan hệ thương mại và đầu tư với Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ.

Các mục tiêu và chiến lược của Trung Quốc tại Triều Tiên: Bằng chứng

Các chính sách về Triều Tiên của Trung Quốc đã đạt được những mục tiêu này, hoặc ít nhất là phục vụ hoặc nâng cao chúng đến mức độ nào?

Giúp chế độ Triều Tiên tồn tại

Kể từ thời Đặng Tiểu Bình, viện trợ kinh tế của Trung Quốc – đặc biệt là lương thực và năng lượng – là điều sống còn trong việc thay thế cho các trợ cấp đã thu hồi của Liên Xô. Điều này đã ngăn chặn một sự sụp đổ hoàn toàn của nền kinh tế Triều Tiên, và cho phép Triều Tiên vượt qua giai đoạn đói kém và khôi phục trở lại một mức sinh kế cơ bản. Kém rõ ràng hơn là việc hợp tác và viện trợ quân sự tiếp tục của PLA đã củng cố các năng lực của các lực lượng an ninh Triều Tiên, vừa chống lại Hàn Quốc và bất kỳ cuộc nổi loạn tiềm tàng nào trong nước, vừa tiếp tục đảm bảo thỏa thuận quốc phòng chung năm 1961 giữa hai nước.

Kể từ thời Đặng Tiểu Bình, đã có những báo cáo cho rằng Trung Quốc đã tìm cách quảng cáo các cải cách “ổn định và phát triển” của mình cho Triều Tiên. Điều này có ý nghĩa khi xét mong muốn của Trung Quốc bảo toàn chế độ Triều Tiên. Các cải cách theo phong cách Đặng Tiểu Bình sẽ làm giảm nguy cơ đói kém và sụp đổ kinh tế, và khiến Triều Tiên có khả năng hơn trong việc tài trợ cho chính nền quốc phòng của mình. Đồng thời, Triều Tiên vẫn phụ thuộc vào Trung Quốc về quân sự, và do đó không thể suy tính chiến tranh mà không có sự chấp thuận của Trung Quốc. Xu hướng rời sự cai trị độc tài của gia tộc họ Kim, sang sự lãnh đạo tập thể dựa vào đảng có lẽ sẽ mang lại cho chế độ Triều Tiên ban lãnh đạo có chất lượng tốt hơn. Một chế độ như vậy có khả năng chặn trước hoặc vượt qua bất kỳ thách thức nội bộ nào, và hòa hợp hành vi của nước này chặt chẽ hơn với các mong muốn của Bắc Kinh.

Trong khi những cải cách như vậy có vẻ như đáng mơ ước đối với Bắc Kinh, chế độ gia tộc họ Kim nhìn chung đã từ chối đi theo, bởi những cải cách này có nguy cơ đẩy quyền lực chính trị của họ vào cảnh nguy hiểm. Rõ ràng nhất là, sự lãnh đạo tập thể dựa vào đảng không cần đến hậu duệ của Kim Il-sung (Kim Nhật Thành). Kim Jong-il và Kim Jong-un đã thử nghiệm nhiều cải cách kinh tế khác nhau, nhưng thay vì có tính hệ thống, mục tiêu đặt ra của chúng gần gũi với cải cách của Cuba hơn là của Trung Quốc. Chúng được lên kế hoạch để ngăn chặn các cuộc khủng hoảng ngắn hạn và làm tăng dòng tiền trực tiếp chảy vào kho bạc của chế độ, trong khi tránh các rủi ro chính trị gắn với phát triển kinh tế rộng hơn và phân quyền hơn.

Tránh chiến tranh và duy trì chia cắt bán đảo

Trung Quốc cũng giúp giảm xác suất xảy ra chiến tranh. Kể từ năm 1953, những nguy cơ và phí tổn được dự kiến là cao đối với cả hai bên đã cùng có tác động ngăn chặn chiến tranh. Đặc biệt là từ cuối những năm 1980 và trên hết là sau năm 1991, sự hỗ trợ của Trung Quốc rất quan trọng trong việc ngăn chặn các mối đe dọa hay áp lực đáng kể đối với một Triều Tiên bất ngờ bị suy yếu, và trong việc kiềm chế phản ứng của Hàn Quốc và Mỹ trong những giai đoạn đầu của chương trình hạt nhân của Triều Tiên. Bắt đầu bằng sự tham gia của Giang Trạch Dân trong cuộc Đàm phán bốn bên, và tiếp tục thông qua sự can dự của Hồ Cẩm Đào trong cuộc Đàm phán sáu bên, cùng với mong muốn của Tập Cận Bình khôi phục các cuộc đàm phán này, Trung Quốc cũng đã sử dụng việc trung gian hòa giải chính thức để giữ các căng thẳng trong tầm kiểm soát. Điều này dường như được thúc đẩy một phần bởi một nhận thức rằng, đặc biệt là trước Thỏa thuận khung năm 1994, những giai đoạn căng thẳng gia tăng đôi khi đã đưa bán đảo này đến gần với chiến tranh một cách nguy hiểm.

Nhìn chung, Trung Quốc vẫn chưa sử dụng đòn bẩy kinh tế và an ninh đáng kể của mình để cố gắng buộc Triều Tiên đi đến nhượng bộ – thực vậy, Trung Quốc đã công khai tuyên bố rằng nước này sẽ không làm như thế. Có 4 trường hợp đã được công khai trong đó Trung Quốc có thể đã tạm thời cắt lương thực, nhiên liệu và các viện trợ kinh tế khác dành cho Triều Tiên: năm 1994, ngay trước khi ký kết Thỏa thuận khung; năm 2003, sau khi Triều Tiên tiết lộ một chương trình làm giàu urani mà đã làm vô hiệu hóa Hiệp định khung, và tuyên bố với Mỹ rằng nước này đã sở hữu vũ khí hạt nhân; năm 2006, ngay trước vụ thử hạt nhân đầu tiên của Triều Tiên; và trong năm 2013-2014, sau vụ thử hạt nhân lần thứ 3 của Triều Tiên và giữa những dấu hiệu về một vụ thử hạt nhân lần thứ tư sắp diễn ra. Những trường hợp này dường như chủ yếu nhằm mục đích giảm căng thẳng – bằng cách cảnh báo Triều Tiên không để cho hành động khiêu khích của mình vượt ngoài tầm kiểm soát, và bằng cách thúc đẩy Triều Tiên tham gia các cuộc đàm phán ngoại giao – và cố gắng tách Trung Quốc ra khỏi hành vi của Triều Tiên.

Trong khi hỗ trợ Triều Tiên khỏi bị cô lập và sụp đổ về kinh tế, Trung Quốc vẫn không tài trợ và cung cấp cho Triều Tiên trong công cuộc hiện đại hóa quy mô lớn những năng lực quân sự thông thường có từ cuối thời Chiến tranh Lạnh của nước này. Ngoài sự tốn kém, điều này sẽ làm giảm sự phụ thuộc của Triều Tiên vào Trung Quốc, và có thể cuốn Triều Tiên vào những hành động khiêu khích mà có thể khiến chiến tranh dễ xảy ra hơn.

Làm chệch hướng nỗ lực của các đối thủ

An ninh lớn hơn của chế độ Triều Tiên đồng nghĩa với phạm vi lớn hơn để tiếp tục các chương trình hạt nhân và tên lửa của nước này, và để phổ biến vũ khí và công nghệ tới Iran, Syria và các nước khác. Chương trình tên lửa tầm xa của Iran về cơ bản dựa trên việc sao chép lại các mô hình của Triều Tiên, Liên Xô và Trung Quốc, chủ yếu sử dụng hỗ trợ kỹ thuật sâu rộng cũng như hàng nhập khẩu trực tiếp từ Triều Tiên. Ngoài ra còn có hợp tác phát triển vũ khí hạt nhân, với việc Iran sử dụng các phương pháp tiếp cận và cơ sở hạ tầng kỹ thuật phản chiếu lại những phương pháp và cơ sở hạ tầng tương tự của Triều Tiên. Lò phản ứng plutoni của Syria, đang được thi công khi nó bị phá hủy bởi một vụ không kích của Israel vào năm 2007, hiện được mô tả rộng rãi như một bản sao của lò phản ứng Yongbyon của Triều Tiên. Triều Tiên từ lâu đã dùng các bí quyết về tên lửa của mình đổi lấy sự hỗ trợ của Pakistan trong chương trình hạt nhân của mình. Xét các bí quyết về hạt nhân và công nghệ của Pakistan gần như hoàn toàn có nguồn gốc từ Trung Quốc, và xét tình hình an ninh chung hơn và sự phụ thuộc nguồn cung cấp vũ khí của Pakistan vào Trung Quốc, liệu Pakistan có xây dựng một quan hệ như vậy với Triều Tiên bất chấp các mong muốn của Trung Quốc hay không? Trong suốt thời gian đó, ngay cả khi Triều Tiên tiếp tục thử nghiệm những phiên bản mới của các loại vũ khí hạt nhân và tên lửa tầm xa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tiếp tục tuyên bố phản đối vũ khí hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên.

Trung Quốc cũng ủng hộ các biện pháp trừng phạt của Hội đồng Bảo an – quan trọng nhất là trong các Nghị quyết 1718, 1874 và 2094. Các biện pháp trừng phạt áp đặt đối với Triều Tiên được giới hạn ở việc xuất khẩu và nhập khẩu các hệ thống vũ khí hạng nặng thông thường nhất định và các công nghệ liên quan đến hạt nhân và tên lửa (2006), nhập khẩu hàng cao cấp (2006, 2013), nhập khẩu tất cả các hệ thống vũ khí hạng nặng thông thường khác và xuất khẩu tất cả các loại vũ khí (2009), và tài trợ các giao dịch liên quan đến tên lửa và hạt nhân (2013).
Như Cheng đã chỉ ra, Trung Quốc đã có thể áp đặt các áp lực hiệu quả hơn nhiều trên một cơ sở song phương – nếu nước này muốn như thế. Thay vào đó, Trung Quốc đã thẳng thừng tuyên bố rằng nước này sẽ không tham gia bất kỳ nỗ lực nào để thực thi các biện pháp trừng phạt thông qua các cuộc thanh tra bắt buộc đối với tàu thuyền của Triều Tiên. Xét các biện pháp trừng phạt giới hạn được áp đặt, các nghị quyết của Hội đồng Bảo an dường như giống một nền tảng cho quan hệ công chúng hơn, từ đó Trung Quốc đã tuyên bố việc không phổ biến vũ khí hạt nhân và thiện ý ngoại giao của mình đối với phương Tây. Các biện pháp trừng phạt dường như không được Trung Quốc thực thi một cách có hệ thống. Triều Tiên đã tiếp tục xuất khẩu vũ khí và công nghệ quân sự sang Iran, Syria và các nước khác. Các mặt hàng xuất khẩu bị cấm của Triều Tiên thường được vận chuyển qua không phận và các cảng của Trung Quốc.

Sự hỗ trợ của Trung Quốc dành cho Triều Tiên cũng rất rõ ràng sau vụ leo thang bạo lực của Triều Tiên trong năm 2010: vụ đắm tàu Cheonan của Hàn Quốc (làm thiệt mạng 46 thủy thủ), và vụ pháo kích lên đảo Yeopyeong của Hàn Quốc (4 người thiệt mạng, trong đó có 2 dân thường). Trung Quốc đã phản ứng trước việc điều tra có phương pháp của Hàn Quốc về vụ Cheonan và cách tiếp cận ngoại giao của nước này bằng cách kêu gọi cả hai bên giữ bình tĩnh và giải quyết các khác biệt giữa họ một cách hòa bình – với mục đích tránh chiến tranh.

Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy sự hỗ trợ trực tiếp của Trung Quốc đối với các chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên, đặc biệt thông qua các nguyên liệu xuất khẩu, các bộ phận và hệ thống mà việc sử dụng chúng cho mục đích dân sự tiềm tàng đã thể hiện sự che giấu vụng về cho sự phủ nhận của Trung Quốc. Chẳng hạn như năm 2012, giới truyền thông Triều Tiên đã để lộ ra các máy phóng tên lửa di động mua được từ CASI – công ty sản xuất tên lửa lớn nhất của Nhà nước Trung Quốc.

Hưởng lợi từ quan hệ kinh tế

Sự hỗ trợ của Trung Quốc dành cho Triều Tiên đã không cản trở thương mại và đầu tư với Hàn Quốc, Nhật Bản hoặc Mỹ. Cùng thời điểm khi Đặng Tiểu Bình ném “chiếc phao cứu sinh” viện trợ cho Triều Tiên, ông đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc. Thương mại và đầu tư quốc tế với Hàn Quốc đã cất cánh. Ngay cả khi Triều Tiên đã dần tăng cường các năng lực vũ khí hạt nhân và tên lửa tầm xa của mình, quan hệ thương mại và đầu tư của Trung Quốc với Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ vẫn tiếp tục mở rộng nhanh chóng. Tính đến năm 2014, Trung Quốc gần hoàn tất một thỏa thuận tự do thương mại với Hàn Quốc.

Bên nào sẽ giành được nhiều lợi thế đòn bẩy hơn từ quan hệ thương mại và đầu tư? Dường như, theo một ý nghĩa hiện sinh, chế độ Trung Quốc dễ bị tổn thương hơn trước những thoái trào kinh tế nghiêm trọng. Tuy nhiên, như phản ứng của Trung Quốc trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 2008 đã cho thấy, nền kinh tế của Trung Quốc đã trở nên kiên cường hơn nhiều trước những cú sốc kinh tế bên ngoài. Hơn nữa, các đối thủ khu vực của Trung Quốc, xét tính chất dân chủ của họ, dường như nhạy cảm hơn về chính trị trước những phí tổn và rủi ro kinh tế so với Trung Quốc, và do đó phản đối hơn trước việc sử dụng áp lực kinh tế để thúc giục Trung Quốc ngừng việc hỗ trợ cho Triều Tiên (và trong trường hợp của Mỹ, Iran cũng giống như vậy). Tính không cân xứng về mặt chính trị này chỉ tăng lên như là kết quả của các điều kiện kinh tế toàn cầu yếu kém kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Trong trường hợp của Hàn Quốc, quy mô kinh tế nhỏ hơn cũng góp phần vào sự phụ thuộc nhiều hơn vào thương mại song phương với Trung Quốc. Trừ phi có một cuộc chiến với Trung Quốc ở Triều Tiên hay bất cứ đâu, hoặc sự hỗ trợ công khai, đột ngột và sâu rộng hơn nhiều của Trung Quốc nhằm tăng cường và khuyến khích các hành vi bất hảo của Triều Tiên và Iran, các nước Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc khó có khả năng suy tính các biện pháp trừng phạt kinh tế đáng kể đối với Trung Quốc. Trung Quốc tự do bảo vệ an ninh của Triều Tiên và dùng Triều Tiên để làm chệch hướng các nỗ lực chính trị và quân sự của các đối thủ khu vực, trong khi đồng thời tận hưởng thành quả của hợp tác kinh tế với chính những đối thủ đó.

“Phần Lan hóa” Hàn Quốc

Trong số 6 mục tiêu chính của Trung Quốc tại Triều Tiên, chỉ còn mục tiêu “Phần Lan hóa” Hàn Quốc là chưa được thực hiện hoặc làm cho có khả năng hơn một cách đáng kể. Điều này không có nghĩa là hoàn toàn không có tiến triển. Từ thời Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã tìm cách mô tả chính mình như một nhà hòa giải công bằng hơn giữa Triều Tiên và Hàn Quốc. Điều này được thể hiện rõ nhất từ những tuyên bố công khai với lời lẽ trung lập trong các cuộc đàm phán bốn bên và sáu bên. Trung Quốc đã vun đắp quan hệ gần gũi hơn với Hàn Quốc dựa trên sự thù địch chung đối với Nhật Bản – đặc biệt là các hành động của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai và việc nước không thừa nhận sự thật, chấp nhận lời buộc tội và cho thấy sự ăn năn theo một cách rõ ràng. Trung Quốc cũng nhấn mạnh đến di sản chung của văn hóa Trung Hoa và Nho giáo như một bản sắc đối địch lại ảnh hưởng gần đây hơn từ Mỹ hay phương Tây tại Hàn Quốc.

Cùng lúc đó, các chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên và việc phổ biến những năng lực này tới các nước bất hảo có xu hướng gây chia rẽ giữa một bên là Hàn Quốc và bên kia là Mỹ và Nhật Bản. Mỹ và Nhật Bản lo sợ hơn khi bị lấy làm mục tiêu của vũ khí hạt nhân – dù trực tiếp, hay trong trường hợp của Mỹ là gián tiếp thông qua việc phổ biến vũ khí. Hàn Quốc lo sợ hơn về một sự bùng nổ căng thẳng kết thúc bằng việc ném bom quy mô lớn vào khu vực nội thành Seoul và một xung đột thông thường theo sau. Do đó, “kẻ xấu” Triều Tiên đe dọa tiến tới chiến tranh, trong khi “người tốt” Trung Quốc đề nghị hòa giải để giúp làm dịu căng thẳng và tránh chiến tranh. Các bộ phận đáng kể trong công luận Hàn Quốc phản ứng bằng cách buộc tội Mỹ đã làm gia tăng căng thẳng và gây nguy cơ chiến tranh một cách không cần thiết, và bằng cách kêu gọi “sự công bằng” hoặc thái độ trung lập trong những cuộc xung đột giữa Triều Tiên và Mỹ.

Tuy nhiên, những xu hướng hoặc ảnh hưởng trung lập hóa như vậy ở Hàn Quốc vẫn còn hạn chế do các thực tế địa chính trị. Căng thẳng Mỹ-Hàn đôi khi cũng trở nên nghiêm trọng – đặc biệt khi các chính phủ trung tả Hàn Quốc tại nhiệm cùng lúc với các chính phủ Mỹ trung hữu. Nhưng khó có khả năng quan hệ liên minh Mỹ-Hàn sẽ bị suy yếu đáng kể, bởi các phương án thay thế còn tệ hơn cho cả hai bên. Nếu không có liên minh với Mỹ, Hàn Quốc sẽ cần sự răn đe hạt nhân riêng và các lực lượng thông thường lớn hơn nữa để đạt được an ninh đáng tin cậy ở bên ngoài. Điều này sẽ tốn kém và kém hiệu quả hơn so với liên minh với Mỹ. Nếu không có liên minh với Hàn Quốc, Mỹ sẽ có ít khả năng hơn gây áp lực với Triều Tiên nhằm hạn chế việc phổ biến hạt nhân và các hoạt động khác có thể phá hoại các lợi ích của Mỹ.

Nhìn chung, các chính sách của Trung Quốc đã phục vụ cho việc đạt được, hoặc có khả năng cao hơn nhiều để đạt được, 5 trong số 6 mục tiêu chính tại bán đảo Triều Tiên. Các mục tiêu này hầu hết đều nhất quán, và tới một chừng mực lớn, củng cố lẫn nhau. Bảo toàn chế độ Triều Tiên và bán đảo bị chia cắt đều phù hợp với mục tiêu tránh chiến tranh và hưởng lợi từ thương mại và đầu tư với Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ. Các chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên và việc phổ biến những tiềm lực này đã tăng cường an ninh cho chế độ Triều Tiên, làm lệch hướng các nỗ lực và nguồn lực của các đối thủ bên ngoài và không cản trở quan hệ thương mại và đầu tư của Trung Quốc.

Xung đột chính xảy ra giữa một bên là việc “Phần Lan hóa” Hàn Quốc và một bên là bảo vệ chế độ Triều Tiên và làm chệch hướng các nỗ lực của đối thủ. Việc “Phần Lan hóa” thực sự đòi hỏi sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Hàn Quốc phần lớn phải chấm dứt, và hợp tác quốc phòng sâu của Hàn Quốc với Mỹ phải được giảm xuống mức còn như một dấu vết. Tuy nhiên, Hàn Quốc không thể từ bỏ sự đảm bảo an ninh của Mỹ trừ phi Trung Quốc có thể đem lại sự kiềm chế đáng tin hơn đối với Triều Tiên – thể hiện bằng những hành động của nước này rằng họ sẽ ngăn chặn việc Triều Tiên đe dọa Hàn Quốc (và bản thân Trung Quốc sẽ không đe dọa Hàn Quốc). Điều này sẽ đòi hỏi Trung Quốc tìm cách chấm dứt chương trình hạt nhân của Triều Tiên, và thay thế chính sự đảm bảo của nước này đối với sự tồn tại của Triều Tiên. Và việc đó sẽ đòi hỏi Triều Tiên vẫn phải yếu hơn Hàn Quốc như trong truyền thống. Nhưng một chính sách như vậy sẽ gây phí tổn và rủi ro đáng kể cho Trung Quốc. Một Triều Tiên không có vũ khí hạt nhân và bị kiềm chế sẽ không thể làm chệch hướng các nguồn lực và nỗ lực của các đối thủ khu vực của Trung Quốc được nữa. Và một Triều Tiên bị kiềm chế như vậy sẽ trở nên kém an toàn hơn trước các mối đe dọa bên ngoài, bên trong, và các mối đe dọa trong-ngoài kết hợp, và do đó sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào nguy cơ Trung Quốc can thiệp quân sự trực tiếp vì sự tồn vong trong tương lai của Triều Tiên. Về mặt lợi ích tiềm năng, dường như khó có khả năng Hàn Quốc sẽ đồng ý từ bỏ liên minh với Mỹ để đổi lấy việc Trung Quốc kiềm chế Triều Tiên theo những cách này. Một thỏa thuận như vậy, như đã thảo luận, sẽ đem lại cho Hàn Quốc an ninh kém hơn sự sắp xếp hiện tại. Hơn nữa, một thỏa thuận như vậy không chắc chắn hoặc đáng tin cậy, bởi việc Mỹ rút lui có khả năng là lâu dài hay khó đảo ngược hơn, trong khi việc kiềm chế Triều Tiên có thể được rút lại bất cứ lúc nào.

Như vậy, xét các mục tiêu của Trung Quốc, thỏa hiệp chính diễn ra giữa một nỗ lực để “Phần Lan hóa” Hàn Quốc chống lại an ninh lớn hơn của chế độ Triều Tiên và việc tiếp tục làm chệch hướng các nỗ lực của Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Dường như các nhà lãnh đạo ĐCSTrung Quốc có khả năng sẽ chọn sự an ninh lớn hơn dành cho chế độ Triều Tiên kết hợp với việc làm chệch hướng các nỗ lực của các kẻ thù của mình, vừa vì giá trị cao hơn vừa vì độ đáng tin cậy lớn hơn của chúng. Cũng cần lưu ý rằng việc “Phần Lan hóa” Hàn Quốc chủ yếu là một mục tiêu địa chính trị. Việc làm chệch hướng các nguồn lực của các đối thủ và sự tồn tại của Triều Tiên cũng là các mục tiêu địa chính trị, nhưng cũng đem lại các lợi ích chính trị nội bộ đáng kể. Với sự nhấn mạnh ngày càng tăng vào sự tồn vong của chế độ dưới quyền các nhà lãnh đạo hậu Đặng Tiểu Bình, đánh giá về giá trị tương đối này dường như sẽ trở nên dứt khoát hơn khi các nhà lãnh đạo mới đặt sự chú trọng gia tăng vào các lợi ích chính trị trong nước.

Kết luận

Sau Đặng Tiểu Bình, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã ngày càng nhấn mạnh vào chủ nghĩa dân tộc có tính đánh lạc hướng hơn là các lợi ích quốc gia. Tại Triều Tiên, Trung Quốc tìm cách bảo toàn chế độ Triều Tiên cùng với một bán đảo bị chia cắt; tránh chiến tranh; làm chệch hướng các nguồn lực quân sự và nỗ lực chính trị của các đối thủ; và hưởng lợi trong thương mại và đầu tư với các đối thủ của mình. Các chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên cùng với việc phổ biến những năng lực này tới các nước bất hảo đã khiến cho Triều Tiên an toàn hơn và làm chệch hướng các nguồn lực và nỗ lực của các đối thủ của Trung Quốc. Các chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên là một rào cản đối với việc “Phần Lan hóa” Hàn Quốc; nhưng mục tiêu “Phần Lan hóa” không khả thi cũng như không có giá trị như các mục tiêu bảo vệ an ninh cho chế độ của Triều Tiên và làm chệch hướng đối thủ, vốn cũng được phục vụ bởi các chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên.

Khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc trở nên tập trung hơn vào các mục tiêu theo đường lối dân tộc chủ nghĩa có tính đánh lạc hướng và đồng thời cũng trở nên mạnh mẽ hơn về kinh tế và quân sự, thì giá trị tương đối của những lợi ích của chương trình hạt nhân và tên lửa của Triều Tiên cũng chỉ gia tăng. Tương tự, trong chừng mực mà những đối thủ của nước này đáp lại bằng các liên minh và một phản nỗ lực quân sự tăng cường, các phí tổn tiềm tàng về lợi ích quốc gia cán cân sức mạnh của hành vi của Triều Tiên giảm xuống, và các lợi ích dân tộc chủ nghĩa có tính đánh lạc hướng trong nước tăng lên. Một lần nữa, rất khó để tưởng tượng ra một bằng chứng mạnh mẽ hơn về hành vi của những tính toán lãnh đạo đang thay đổi này so với sức ép dai dẳng của Bắc Kinh đối với Nhật Bản trong vấn đề quần đảo Điếu Ngư/Senkaku từ năm 2010.

Hàm ý của bản đánh giá này đối với tương lai là gì? Chúng ta có khả năng sẽ chứng kiến những điều tương tự hơn sẽ tiếp tục xảy ra tại Triều Tiên – một bán đảo bị chia cắt trong đó chế độ Triều Tiên tồn tại và tiếp tục với việc phát triển và phổ biến hạt nhân và tên lửa, chiến tranh cường độ thấp không thường xuyên, và giọng điệu kích động của nước này. Khi tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc suy giảm, một ban lãnh đạo ĐCS phân quyền hơn và dễ tổn thương từ bên trong chắc chắn sẽ dựa dẫm nhiều hơn vào chủ nghĩa dân tộc mang tính đánh lạc hướng. Điều này sẽ làm gia tăng căng thẳng với các đối thủ khu vực của họ, và đồng thời làm tăng giá trị của bất kỳ việc làm chệch hướng nguồn lực và nỗ lực của các đối thủ tại Triều Tiên và bất cứ nơi nào khác.

Trong năm 2013-2014, quan hệ giữa Trung Quốc và Triều Tiên dường như đã xuống cấp, với các chuyến vận chuyển dầu quan trọng từ Trung Quốc dường như đang giảm đi – mặc dù thương mại song phương về tổng thể vẫn hầu như không thay đổi và các chuyến vận chuyển dầu vẫn đủ lớn để ngăn chặn các tác động tiêu cực nghiêm trọng đối với nền kinh tế Triều Tiên. Có hai cách diễn giải chính về những sự kiện này. Một số người cho rằng Trung Quốc cuối cùng cũng đã mất kiên nhẫn với các chương trình hạt nhân và tên lửa tiếp diễn cùng với chính sách “bên miệng hố chiến tranh” của Triều Tiên, và đang gây áp lực để Triều Tiên phi hạt nhân hóa. Số khác lại cho rằng Trung Quốc đang cảnh báo Triều Tiên tránh khiêu khích quá đà và cũng phản ứng trước việc Kim Jong-un thanh trừng Jang Song-thaek – một lãnh đạo Triều Tiên cấp cao có quan hệ gần gũi với Trung Quốc. Trung Quốc coi Jang như một sự bảo đảm rằng các lợi ích của Trung Quốc sẽ được bảo vệ ở Bình Nhưỡng, và cũng có thể sử dụng ảnh hưởng của ông để biến đổi nhà nước và nền kinh tế Triều Tiên theo mô hình của Trung Quốc. Theo cách diễn giải này, Trung Quốc tiếp tục muốn bảo vệ chế độ Triều Tiên, và không cố ép Triều Tiên phi hạt nhân hóa. Lập luận của bài phân tích này ủng hộ cách diễn giải thứ hai. Việc Tập Cận Bình dường như còn quyết đoán hơn về vấn đề Triều Tiên không nhất thiết phải là tin tốt lành đối với Hàn Quốc. Có chăng, điều này khiến có khả năng hơn là Trung Quốc sẽ hành động một cách quyết đoán để ngăn chặn bất kỳ sự sụp đổ nào của chế độ ở Triều Tiên, và rằng Trung Quốc có lẽ đang ép Triều Tiên thực hiện các cải cách kinh tế và chính trị củng cố những triển vọng tồn tại lâu dài của chế độ này.

Sự ủng hộ của Trung Quốc dành cho chế độ Triều Tiên – bao gồm các chương trình hạt nhân và tên lửa cùng các hoạt động phổ biến những năng lực này của Triều Tiên – dường như có khả năng sẽ tiếp tục tồn tại trừ phi có một sự chuyển đổi sang nền dân chủ ở Trung Quốc. Trong khi đó, phản ứng tốt nhất đối với Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ là gì? Gần như chưa có gì được thực hiện ngoại trừ việc “thắt chặt dây an toàn” – nghĩa là, dựa một cách kiên nhẫn và kiên trì vào những chiến lược răn đe tiêu chuẩn. Với một Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ, và một ban lãnh đạo ngày càng không sợ hãi trước các va chạm quốc tế, chính sách “bên miệng hố chiến tranh”, và thậm chí cả bạo lực cường độ thấp, sẽ là nguy hiểm khi trở nên quá yếu về mặt quân sự, mơ hồ về các giới hạn đỏ, hoặc thể hiện quyết tâm chính trị yếu kém. Tất cả các bên sẽ hưởng lợi từ việc duy trì và tăng cường quan hệ liên minh, tăng cường các năng lực quân sự, và lên kế hoạch chặt chẽ về các phản ứng ngoại giao và quân sự chung trước toàn bộ các sự kiện ngẫu nhiên có thể xảy ra. Trong đấu trường Triều Tiên, điều đặc biệt quan trọng là phải tăng cường quan hệ chính trị giữa Hàn Quốc và Mỹ, và giữa Hàn Quốc và Nhật Bản. Sẽ là đáng mong ước nếu đi đến những thỏa thuận công khai về các yếu tố và tình huống gây căng thẳng đáng kể cho các mối quan hệ song phương này – chẳng hạn như việc Mỹ phản ứng trước các hoạt động phổ biến hạt nhân của Triều Tiên, và thái độ của Nhật Bản đối với quá khứ đế quốc của họ. Thật không may, có những rào cản chính trị trong nước lớn hơn đối với việc thực hiện những điều chỉnh như vậy tại Nhật Bản.

Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông

[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”620″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]