Tác giả: Lưu Minh Phúc (Trung Quốc) | Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành
Dù ở thời đại nào, dù là Quốc gia quán quân kiểu loại nào, các Quốc gia quán quân đều có những đóng góp trên nhiều mặt cho lịch sử. Quốc gia quán quân có 7 giá trị như sau.
Thúc đẩy nền văn minh có bước tiến mới
Trong lịch sử thế giới cận đại, mỗi lần xuất hiện một Quốc gia quán quân mới bao giờ cũng đem lại cho thế giới một làn gió mới, thúc đẩy xã hội loài người tiến sang một giai đoạn lịch sử mới, mang lại cho nền văn minh trái đất một đợt khai hóa và tiến hóa, đem lại tin tốt lành cho loài người. Tuy rằng các Quốc gia quán quân kiểu thực dân và kiểu bá quyền cũng đem lại tai nạn và bất hạnh cho cộng đồng quốc tế, nhưng không thể vì thế mà phủ định công trạng mà các quốc gia đó đóng góp cho việc xây dựng cộng đồng quốc tế.
Khi đóng góp của một quốc gia đối với thế giới không thể tiếp tục xếp hạng thứ nhất thì quốc gia đó cũng không thể tiếp tục duy trì vị trí Quốc gia quán quân thế giới, nó phải nhường chiếc mũ Quốc gia quán quân cho nước khác, tuy rằng có khi sự chuyển tiếp Quốc gia quán quân cũ mới phải thực hiện bằng chiến tranh.
Mở ra một thời đại lịch sử mới
Thế giới cận đại từng trải qua mấy thời đại kích động lòng người, như “thời đại hàng hải lớn”, “thời đại công nghiệp hóa”, “thời đại tin học”. Sự khai mở các thời đại ấy đều gắn chặt với tên các Quốc gia quán quân đó. Mỗi quốc gia đều đã khai mở và cống hiến cho thế giới một “thời đại”.
Bồ Đào Nha và Hà Lan đều sáng tạo và cống hiến cho nhân loại một thời đại “hàng hải lớn”, thời đại “phát hiện lớn về địa lý”. Nó làm cho lịch sử loài người thực sự trở thành lịch sử thế giới, mở rộng vũ đài hoạt động của nhân loại tới toàn thế giới, cuộc cạnh tranh tiến hành giữa các quốc gia trên phạm vi toàn cầu đã mạnh mẽ thúc đẩy tiến trình lịch sử nhân loại.
Nước Anh mở ra thời đại công nghiệp hóa thế giới. Ngày 1/5/1851, Hội chợ quốc tế đầu tiên khai mạc tại Anh, trưng ra trước thế giới sự phồn vinh và giàu có của nước Anh. Trước đó, trên thế giới từng xuất hiện những cường quốc, nước lớn, nước giàu, nhưng chưa từng có một quốc gia nào như nước Anh, nhờ khai sáng một nền văn minh công nghiệp mà làm cho đất nước mình giàu mạnh tới mức sức mạnh của họ ngang bằng với sức mạnh của các quốc gia khác cộng lại. Nước Anh thời đại công nghiệp hóa dẫn dắt trào lưu toàn cầu, khiến cho toàn thế giới đều đi lên con đường cách mạng công nghiệp. Trong lịch sử nhân loại, nước này đầu tiên chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, là nước công nghiệp đầu tiên trên thế giới. Sức mạnh công nghiệp của Anh tương đương với tổng sức mạnh công nghiệp của các nước còn lại. Năm 1860, số dân nước Anh chỉ chiếm 2% tổng số dân toàn thế giới, 10% tổng số dân châu Âu, thế mà sản phẩm công nghiệp Anh sản xuất lại chiếm 40 – 50% tổng sản lượng toàn thế giới và 55 – 65% tổng sản lượng của châu Âu. Nước Anh thời đại công nghiệp hóa là nhà máy của thế giới; đó là cơ sở vật chất để nước Anh dẫn đầu thế giới, xưng bá và cống hiến cho thế giới.
Mỹ trở thành Quốc gia quán quân cũng là do nước này có cống hiến mang tính khai sáng kỷ nguyên mới của thế giới. Marx từng hết lời ca ngợi nước Mỹ là “Nơi trước nhất sinh ra tư tưởng nước cộng hòa dân chủ vĩ đại”, ca ngợi bản Tuyên ngôn Độc lập do các thuộc địa ở Bắc Mỹ công bố năm 1776 là “Tuyên ngôn đầu tiên về quyền con người”. Marx còn đánh giá cao bản Tuyên ngôn Giải phóng của Mỹ năm 1863. Ông từng thay mặt Quốc tế I gửi lời chúc mừng chan chứa nhiệt tình: “Công nhân châu Âu tin chắc là, cũng như cuộc chiến tranh Độc lập của Mỹ đã mở ra kỷ nguyên mới giai cấp tư sản giành thắng lợi, cuộc chiến tranh chống chế độ nô lệ của Mỹ sẽ mở ra kỷ nguyên mới giai cấp công nhân giành thắng lợi. Họ tin rằng cuộc chiến đấu chưa từng có trong lịch sử do người con trung thành của giai cấp công nhân Abraham Lincoln lãnh đạo đất nước mình tiến hành nhằm giải phóng các chủng tộc bị nô dịch và cải tạo chế độ xã hội là tiếng nói mở đầu của một thời đại sắp tới.”
Với việc mở ra thời đại tin học, nước Mỹ cũng đi đầu thế giới, có cống hiến hàng đầu. Năm 1992, sau khi được bầu làm Tổng thống Mỹ, ông Clinton đã áp dụng chiến lược phát triển về sau được gọi là “Kinh tế học Clinton”, trong đó có một biện pháp chiến lược quan trọng là đẩy mạnh chính sách sản nghiệp công nghệ, tận dụng ưu thế lực lượng mạnh về nhân tài và khoa học kỹ thuật của nước Mỹ, dẫn đầu trào lưu mới phát triển công nghệ điện tử, công nghệ tin học của thế giới. Điều đó chẳng những tăng được sức cạnh tranh toàn cầu cho các sản phẩm của Mỹ, khiến cho nước Mỹ phát huy được tác dụng dẫn đầu trong lĩnh vực điện tử-tin học góp phần làm kinh tế thế giới tăng trưởng trong thế kỷ 21, hơn nữa còn kéo cả thế giới tiến sang thời đại tin học hóa.
Xây dựng trật tự mới cho thế giới
Quốc gia quán quân là nhà thiết kế thế giới. Công việc thiết kế ấy gồm có: hình thành một cục diện quốc tế mới, xác lập một bộ chuẩn tắc quốc tế mới, sáng lập một bộ quy chế quốc tế mới, xây dựng một trật tự quốc tế mới, cấu trúc một hệ thống quốc tế mới, v.v…
Chuyên gia lịch sử ngoại giao Mỹ Warren Cohen từng nói: Khi bắt đầu Thế chiến II, người Mỹ đã bắt đầu tiến hành thiết kế tổng thể thế giới sau chiến tranh. “Nếu nói bản thân Tổng thống quá quan tâm tới các vấn đề quân sự và chiến lược mà không có thời gian suy nghĩ nhiều về tình thế thế giới sau chiến thắng, thế thì những người khác lại càng có nhiều thời gian lao vào công việc thiết kế thế giới sau chiến tranh. Trong đó đáng chú ý nhất là các cố gắng của chính phủ Mỹ. Hầu như là cùng với với việc chiến tranh sắp nổ ra, người ta đã bắt đầu tổ chức các nhóm nghiên cứu và tiểu ban tư vấn nhằm vào các công việc của thế giới trong tương lai, người ta triệu tập các quan chức và nghị sĩ, nhà báo, học giả, sĩ quan, tức mọi nhân viên liên quan trong ngành để tiến hành nghiên cứu và bàn thảo rộng rãi về mọi công việc sau chiến tranh, trong đó có việc chiếm đóng các nước thù địch, điều chỉnh lãnh thổ, an ninh quốc tế và tái xây dựng mối quan hệ thương mại, v.v…
Cho dù việc thảo luận của các tiểu ban ấy còn chưa vượt quá mức trao đổi tin tức và quan điểm, nhưng đã xuất hiện một số quan niệm đặc biệt xác định. Một khi Washington bắt đầu tìm kiếm sự chỉ đạo cụ thể sau chiến tranh, các quan niệm đó sẽ lập tức trở thành một phần trong chính sách chính thức của nước Mỹ. Rất rõ ràng, các quan niệm ấy thuộc kiểu Thomas Wilson, hầu hết thành viên tham gia các nhóm nghiên cứu đều đồng ý rằng sau khi đánh bại các nước khối Trục thì bộ khung chủ yếu về giữ gìn trật tự và an ninh thế giới sẽ là phải khôi phục nguyên tắc hợp tác quốc tế chứ không phải là thế quân bình lỗi thời.” Sau Thế chiến II, nước Mỹ bắt đầu thi công bản thiết kế của mình, tạo dựng một thế giới phù hợp yêu cầu lợi ích của Mỹ.
Bản thiết kế tổng thể thế giới của Quốc gia quán quân được thực hiện qua việc thi công cấu trúc “hệ thống thế giới”, chủ yếu gồm 4 trụ cột: – hệ thống kinh tế có tính thế giới; – hệ thống tư tưởng có tính thế giới; – hệ thống quân sự có tính thế giới; – hệ thống quy tắc chế độ có tính thế giới.
Dẫn dắt trào lưu mới toàn cầu
Quốc gia quán quân là quốc gia hình mẫu, gương mẫu, đứng đầu thế giới. Quốc gia đó có khả năng nêu gương mạnh mẽ, có sức ảnh hưởng, sức lây nhiễm mạnh mẽ. Quốc gia quán quân vừa là “quốc gia đặc sắc” độc đáo, lại vừa là quốc gia có giá trị bắt chước quốc tế, bao giờ cũng được một nhóm đông đảo quốc gia khác học tập và bắt chước.
Khi nước Anh hát vang bài ca khải hoàn trong cao trào công nghiệp hóa, toàn thế giới đều nhìn vào họ, đi theo họ. Sự xuất hiện Quốc gia quán quân Anh Quốc đã làm cho thế giới xuất hiện làn sóng “Anh Quốc hóa thế giới”. Công cuộc công nghiệp hóa của nước Anh đã tạo nên một đợt “Anh Quốc hóa”. Nước này dùng văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần làm lễ rửa tội cho thế giới, mà thế giới cũng bằng lòng tiếp nhận tắm mình trong văn minh Anh Quốc.
Khi xuất hiện tân Quốc gia quán quân là nước Mỹ, trên thế giới bèn xuất hiện làn sóng “Mỹ Quốc hóa thế giới”, điều đó thể hiện trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa. Cùng với sự trỗi dậy của nước Mỹ, thế giới đều nhanh chóng Mỹ hóa trên các mặt văn hóa vật chất và văn hóa đại chúng. “Giấc mơ Mỹ” trở thành thứ người ta hướng tới, lối sống Mỹ trở thành thứ người ta phổ biến theo đuổi. Ngay từ buổi giao thời giữa hai thế kỷ 19 và 20, các nhà quan sát nước ngoài đã bàn về ảnh hưởng phổ biến của hàng hóa Mỹ và lối sống Mỹ đối với toàn thế giới. Người Mỹ hưởng thụ tiêu chuẩn sống cao nhất thế giới là đối tượng hâm mộ của khắp năm châu, dường như họ đại diện cho sự phồn vinh vật chất, sự thoải mái dễ chịu và một lối sống thoát khỏi sự rối loạn của thế giới cũ.
Trước Thế chiến II, hầu hết các nước còn chưa có những sản phẩm hiện đại như đồ điện, xe hơi, điện thoại – là những thứ vật phẩm hồi đó đã trở thành cực kỳ phổ cập tại Mỹ. Điều đáng chú ý là hiện tượng này trở nên nổi bật hơn từ sau năm 1919, hơn nữa do địa vị châu Âu bị suy thoái, tư tưởng “phương Tây suy thoái” trở nên phổ biến, do bị chiến tranh phá hoại và do một số nước châu Âu đi theo Mỹ về công nghiệp và thương mại, châu Âu cảm thấy mình ở vào thế phòng ngự, không còn là suối nguồn của trí tuệ và trung tâm văn minh nữa. Đứng trước sự tái tạo thế giới, châu Âu hầu như không còn có thể đưa ra thứ gì nữa. Nhiệm vụ giữ hòa bình (không chỉ về địa chính trị mà còn cả về chính trị và văn hóa) không thể không nhờ cậy nước khác, trước hết là Mỹ. Nước Mỹ chưa bị chiến tranh gây tổn thương trở thành tượng trưng cho văn hóa vật chất và văn hóa đại chúng. Chẳng những trong nước Mỹ xảy ra sự đồng chất hóa mà toàn cầu cũng xảy ra sự đồng chất hóa văn hóa Mỹ. Ba phát minh ô tô, điện ảnh và máy thu thanh kết nối người Mỹ ở khắp nơi lại với nhau cũng phát huy tác dụng như vậy trên toàn thế giới, bởi lẽ về cơ bản chúng đều là sản phẩm của văn minh Mỹ, sau chiến tranh, chúng truyền bá tới mọi xó xỉnh trên khắp năm châu.
Sáng tạo phát triển kỳ tích mới
Quốc gia quán quân là quốc gia sáng tạo kỳ tích cho nhân loại, và chỉ có như thế thì mới trở thành quán quân.
Thế kỷ 17 là thế kỷ của Hà Lan. Tiểu quốc Hà Lan diện tích chỉ tương đương 2,5 lần thành phố Bắc Kinh, số dân chưa đầy 2 triệu, thế mà đã viết nên một kỳ tích nước lớn trỗi dậy. Ngày 26/7/1581, bảy tỉnh miền Bắc Hà Lan tuyên bố thành lập nước cộng hòa liên tỉnh, độc lập, tách ra khỏi Tây Ban Nha. Vì tỉnh Hà Lan lớn nhất, kinh tế phát triển nhất, cho nên gọi là nước cộng hòa Hà Lan. Cộng hòa Hà Lan là nước cộng hòa tư sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Hà Lan còn sáng tạo được những cái nhất thế giới trên nhiều mặt khác. Hồi đó nước này được gọi là “thánh địa Mecca nông nghiệp”, các sản phẩm từ sữa bò, rau củ hoa quả, nghề làm vườn của Hà Lan đều nổi tiếng châu Âu, người châu Âu nào muốn học kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến tất phải tới đây. Giao thông vận tải trên biển của Hà Lan cũng nhất thế giới, là “người đánh xe trên biển” của cả năm châu. Năm 1602, người Hà Lan thành lập công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới – Công ty Đông Ấn Độ liên hợp Hà Lan, thành lập Sở Giao dịch chứng khoán đầu tiên trên thế giới – Sở Giao dịch chứng khoán Amsterdam. Ngân hàng đầu tiên trên thế giới do Hà Lan sáng lập – Ngân hàng Amsterdam ra đời vào năm 1609, sớm khoảng 100 năm so với Ngân hàng Anh Quốc. Hà Lan là quốc gia đầu tiên kinh tế tăng trưởng liên tục. Một trong hai đồng chủ nhân giải Nobel kinh tế 1993 là Douglass C. North từng đánh giá cao sự trỗi dậy của Hà Lan: “Trong thời kỳ đầu của lịch sử cận đại, Hà Lan đã trở thành thủ lĩnh kinh tế của châu Âu”, “Trên thực tế, Hà Lan là quốc gia đầu tiên đạt được sự tăng trưởng kinh tế liên tục theo ý nghĩa chúng ta xác định”. Cho tới nay, người Hà Lan vẫn sống giàu có, các quy tắc buôn bán do họ đặt ra vẫn ảnh hưởng tới thế giới.
Trong nửa sau thế kỷ 17, Hà Lan có hơn 16.000 tàu buôn, chiếm 3/4 tổng tấn số đội tàu buôn của cả châu Âu, bằng tổng tấn số tàu buôn của Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha cộng lại. Nếu lấy quốc gia làm đơn vị so sánh thì Hà Lan bằng 4~5 lần nước Anh, 7 lần Pháp. Họ hầu như độc quyền về vận tải biển toàn cầu. Có bình luận cho rằng “Người Hà Lan khai thác mật từ các nước khác… Na Uy là khu rừng của họ, hai bờ sông Rhein là vườn nho của họ, Ireland là bãi chăn nuôi gia súc của họ, Phổ, Ba Lan là vựa thóc của họ, Ấn Độ và các nước A Rập là vườn trái cây của họ.” Amsterdam hồi thế kỷ 17 là trung tâm buôn bán của toàn châu Âu. Khi công thương nghiệp Hà Lan phát triển tới đỉnh cao, tích lũy tư bản của Hà Lan cao hơn tổng tích lũy tư bản của các nước châu Âu, đầu tư ở ngoài nước nhiều hơn Anh Quốc 15 lần, trình độ công trường thủ công nghiệp của Hà Lan đứng đầu châu Âu.
Năm 1664, Thomas Mun, một người Anh nổi tiếng theo chủ nghĩa trọng thương từng nói: “Đây là một kỳ tích trên thế giới: một quốc gia nhỏ như vậy, to chưa bằng hai quận to nhất ở nước ta, tài nguyên thiên nhiên, thực phẩm, nguyên liệu gỗ hoặc các loại vũ khí cần thiết cho thời kỳ chiến tranh hay hòa bình đều ít tới mức không đáng kể, thế mà rốt cuộc nước ấy có dư thừa tất cả mọi thứ.” Một đại gia sử học phái Niên giám Pháp là Braudel từng diễn tả tâm trạng của người châu Âu đối với sự trỗi dậy của Hà Lan, ông viết: “Hồi ấy người ta chỉ nhìn thấy một số biểu hiện khiến thiên hạ hoa mắt. Như thường lệ, người ta không chú ý tới quá trình chuẩn bị lâu dài, cho đến khi Hà Lan đạt được những thành tựu sáng chói lóa mắt, họ mới tỉnh ngộ. Trong khoảnh khắc, bất cứ ai cũng không thể hiểu nổi vì sao một nước nhỏ mới đầu còn non nớt nay bỗng dưng mọi cái đều thành công, phát triển thần tốc, giàu mạnh vô song. Mọi người hăng hái bàn thảo về bí quyết, kỳ tích và sự giàu có kỳ lạ của Hà Lan.”
Marx từng hết lời ca ngợi kỳ tích trỗi dậy của nước Mỹ. Trong Hình thái ý thức của nước Đức ông viết: “Thí dụ hoàn thiện nhất về quốc gia hiện đại là Bắc Mỹ .” Trong Siêu hình học chính trị kinh tế học, Marx gọi nước Mỹ là “quốc gia tiến bộ nhanh nhất tại Bắc Mỹ”.
Xây dựng mô hình mới ưu việt
Một quốc gia áp dụng mô hình như thế nào để tạo dựng kết cấu của mình, để vận hành và phát triển bản thân, điều đó quan hệ tới tính chất quốc gia, sức sống và tiền đồ của quốc gia đó, là sức cạnh tranh quan trọng của quốc gia. Quốc gia quán quân đều là quốc gia sáng tạo mô hình mới, cống hiến mô hình phát triển, là quốc gia có mô hình tiên tiến nhất.
Mô hình chính trị của nước Anh là mô hình tiên tiến nhất trên thế giới hồi ấy. Nước Anh đầu tiên xác lập chế độ nhà nước hiện đại, gồm các chế độ chính trị như chế độ nội các, chế độ quân chủ lập hiến, chế độ hai đảng, chế độ chính phủ chịu trách nhiệm trước quốc hội. Một hệ thống chế độ chính trị như thế đã bảo đảm nước Anh được yên ổn lâu dài và phát triển ổn định. Đóng góp của nước Anh về mô hình kinh tế cũng có tính vạch thời đại. Mô hình công nghiệp hóa của nước Anh có ảnh hưởng to lớn và lâu dài đối với thế giới.
Mô hình Mỹ chẳng những tạo dựng sự trỗi dậy và bá quyền của nước Mỹ, hơn nữa đối với thế giới nó còn phát huy được ảnh hưởng không quốc gia nào có thể sánh nổi. Mỹ là nước lớn có thời gian dựng nước ngắn nhất thế giới, mà lại là nước lớn có lịch sử chế độ cộng hòa lâu dài nhất. Trong thời gian hơn 200 năm sau khi nước Mỹ lập quốc, trên thế giới bình quân cứ 2 nước thì một nước có chính phủ bị các thế lực khác lật đổ. Thế nhưng chính phủ Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ ngược lại vẫn luôn luôn tiếp tục ổn định. Từ ngày lập quốc đến nay nước Mỹ chưa hề có đảo chính. Sau khi độc lập, nước Mỹ đã xây dựng được một thể chế chính trị có đặc sắc riêng không giống các quốc gia khác.
Hiến pháp Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ xác lập năm 1787 là bộ hiến pháp thành văn đầu tiên của giai cấp tư sản trong lịch sử thế giới. Hiến pháp này dựa trên cơ sở lý luận là tư tưởng dân chủ và nguyên tắc dân chủ của giai cấp tư sản, đầu tiên sáng tạo nên một hệ thống chế độ quốc gia và chế độ chính trị của giai cấp tư sản lấy đặc trưng là chế độ cộng hòa dân chủ, bao gồm chế độ cộng hòa, chế độ liên bang, chế độ Tổng thống, chế độ tam quyền phân lập, chính phủ dân bầu, chế độ nhiệm kỳ của người lãnh đạo v.v…Chính quyền Mỹ cấu tạo bởi ba bộ phận lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội phụ trách việc lập pháp, nhưng các nghị quyết của Quốc hội chỉ có hiệu lực sau khi được Tổng thống phê chuẩn. Tổng thống chủ trì công việc chính trị, nhưng các quan chức quan trọng do Tổng thống bổ nhiệm và các hiệp ước do Tổng thống ký kết thì phải được thượng viện quốc hội phê chuẩn; quốc hội còn có quyền phế truất và bãi miễn Tổng thống; Tòa án Tối cao là cơ quan tư pháp chịu trách nhiệm xử lý mọi vấn đề pháp luật và hiến pháp. Cơ chế phân quyền của nước Mỹ bảo đảm dân chủ hóa trình tự ra quyết sách, tránh được sự lạm dụng quyền lực.
Trong quá trình song hành với các mô hình khác trên thế giới, nhất là với “mô hình Liên Xô” trong cuộc đua chiến tranh lạnh lâu dài, “mô hình Mỹ” đã thể hiện tính lâu dài và ngoan cường của nó, là cơ sở và vốn liếng quan trọng để nước Mỹ trước sau duy trì được ưu thế tự thân và ảnh hưởng rộng rãi tới thế giới.
Của cải tăng lên nhất thiên hạ
Quốc gia quán quân là nhà quán quân làm giàu trên thế giới, quán quân về mặt của cải. Anh Quốc lên ngôi bá chủ công nghiệp thế giới trong cuộc cách mạng công nghiệp, năm 1850 họ sản xuất một nửa sản phẩm kim loại, các sản phẩm từ bông và sắt thép của toàn thế giới, cũng như hai phần ba sản lượng than; đứng đầu toàn cầu về ngành đóng tàu và xây dựng đường sắt. Năm 1860, Anh sản xuất 40 – 50% sản phẩm công nghiệp của thế giới, 55 – 60% sản phẩm công nghiệp của châu Âu. Ngoại thương của nước Anh năm 1850 chiếm 20% tổng lượng buôn bán của thế giới; 10 năm sau tăng lên 40%. Đồng Bảng Anh trở thành đồng tiền quốc tế. Trong tình hình nước Anh chỉ chiếm 0,2% diện tích lục địa thế giới, số dân hồi ấy chỉ có hơn 10 triệu (chiếm 2% số dân toàn thế giới hoặc 10% số dân châu Âu), thế mà nước này sở hữu năng lực công nghiệp hiện đại tương đương với 40 – 50% tiềm lực công nghiệp toàn thế giới; đồng Bảng Anh có uy quyền vô địch toàn cầu.
Nước Mỹ sau Thế chiến II có sức mạnh siêu cường. Giáo sư Lưu Kim Chất, học giả ngành lịch sử quan hệ quốc tế ở Đại học Bắc Kinh viết trong cuốn Chiến tranh lạnh như sau: Mỹ đứng thứ nhất trong thương mại quốc tế, các sản phẩm của Mỹ, trò giải trí tiêu khiển và lối sống Mỹ tràn ngập khắp thế giới. Tuy rằng trong chiến tranh có 410 nghìn người Mỹ chết, song Mỹ là nước lớn duy nhất không bị chiến tranh trực tiếp phá hoại, hơn thế nữa, nền kinh tế quốc dân Mỹ mở rộng gấp đôi. Thời gian 1940 – 1945, lợi nhuận sau thuế của các công ty Mỹ lên tới 124,95 tỷ USD, bằng 3,5 lần mức 6 năm trước chiến tranh. Sau chiến tranh, nước Mỹ tập trung 3/4 tổng số vốn và 2/3 năng lực sản xuất công nghiệp toàn thế giới. Mỹ nắm gần 59% trữ lượng vàng của thế giới tư bản, sở hữu trên một nửa tổng trọng tải lực lượng tàu buôn toàn thế giới. Mỹ chiếm một phần ba tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới. Mỹ trở thành nước xuất khẩu tư bản và chủ nợ lớn nhất thế giới.
Lưu Minh Phúc (Liu MingFu), 65 tuổi, nguyên đại tá Quân Giải phóng Trung Quốc, giáo sư Đại học Quốc phòng Trung Quốc, đã nghỉ hưu, năm 2010 xuất bản sách Giấc mơ Trung Quốc, đang chuẩn bị xuất bản 3 cuốn sách mới. New York Times đánh giá ông là học giả diều hâu nổi tiếng nhất trong quân đội Trung Quốc, quan điểm của Lưu Minh Phúc được coi trọng dưới thời Tập Cận Bình.
Nguồn: 中国梦: 后美国时代的大国思维与战略定位 刘明福
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]