Tác giả: Hoàng Thị Hà | Biên dịch: Trần Quang
Giới thiệu
Kể từ khi chiến lược “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mở và tự do” (FOIP) của Tổng thống Mỹ Donald Trump được đưa ra và Đối thoại an ninh 4 bên hay còn gọi là Bộ tứ (gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc) được khôi phục vào cuối năm 2017, khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đã được chú ý nhiều trong diễn ngôn về quan hệ quốc tế. Tuy vậy, ngay cả những bên đề xuất sáng kiến này cũng không có nhận thức chung hay một định nghĩa chính thức về thuật ngữ này. Trong 2 năm qua, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc đã đưa ra những cách lý giải riêng của họ về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương khi họ đưa khái niệm này vào chính sách đối ngoại nước mình. Trong khi đó Trung Quốc vẫn tránh xa cuộc luận bàn về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nghi ngờ đây là một chiến dịch nhằm kiềm chế Trung Quốc.
Theo sáng kiến và sự thúc giục của Indonesia, ASEAN đã tổ chức các cuộc thảo luận nội khối để hình thành một lập trường chung về vấn đề này. Kết quả là, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 34 diễn ra tại Bangkok vào tháng 6/2019 đã thông qua Quan điểm ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (AOIP). Bài viết này xem xét nội dung của AOIP và phân tích ý nghĩa của nó đối với ASEAN và các nước thành viên.
Tiếp nối văn hóa chiến lược của ASEAN
Trong nhiều khía cạnh, AOIP vẫn là “rượu cũ” trong một chiếc bình có bao bì mới. Sáng kiến này tiếp nối quan điểm cởi mở và bao trùm của ASEAN, và xác định ASEAN là “bên môi giới trung thực trong môi trường chiến lược gồm các lợi ích cạnh tranh”. Với biểu ngữ “Một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đối thoại và hợp tác thay vì đối đầu”, AOIP xây dựng chính sách lâu dài của ASEAN trong đó tính đến tất cả các đối tác và bạn bè, đặc biệt là các nước lớn, trong các khuôn khổ của ASEAN, thúc đẩy thói quen đối thoại và hợp tác của họ, khuyến khích họ tự kiềm chế, và khai thác các khả năng cũng như nguồn lực của họ để giải quyết các thách thức chung. Ban hội thẩm vẫn đang hội ý về việc liệu cách tiếp cận đối thoại và hợp tác của ASEAN có hiệu quả hay không trong bối cảnh mới, khi quan hệ Mỹ-Trung có bước chuyển mạnh mẽ sang hướng cạnh tranh chiến lược và thậm chí ngừng kết nối về kinh tế và công nghệ.
AOIP quy định các nguyên tắc lâu dài của ASEAN liên quan tới cấu trúc khu vực, bao gồm “cởi mở”, “minh bạch”, “bao trùm”, “dựa trên các quy tắc” và “tôn trọng luật pháp quốc tế”. Khái niệm “tự do” được tuyên bố trong AOIP nghĩa là “đóng góp cho việc duy trì hòa bình, tự do và thịnh vượng”. Mặc dù không giải thích cặn kẽ “tự do” nghĩa là gì, nhưng có thể gộp chung với nguyên tắc tôn trọng chủ quyền, không can thiệp và bình đẳng được nhắc đến trong một đoạn sau đó. Ở khía cạnh này, nó có nét tương đồng nào đó với ý “tự do” trong khái niệm “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở” (FOIP) của Mỹ – trong đó có quyền tự do không bị cưỡng ép hoặc tự do thực thi chủ quyền.
Tuy nhiên, sự tương đồng chỉ dừng lại ở đó. “Tự do” trong FOIP áp dụng cho cả quan hệ quốc tế và việc quản lý trong nước – vấn đề thứ hai được nêu rõ trong “xã hội tự do, cụ thể là quyền và tự do cá nhân, quản trị tốt” và “tuân thủ các giá trị chung của Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền”. Trong khi đó, “tự do” trong AOIP chủ yếu tập trung vào quan hệ giữa các quốc gia, như được phản ánh trong các hiệp ước quốc tế được liệt kê trong phạm vi “tôn trọng luật pháp quốc tế”, trong đó bao gồm cả Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, các hiệp ước và công ước khác có liên quan của Liên hợp quốc, Hiến chương ASEAN, cùng nhiều hiệp ước và hiệp định khác của ASEAN, cũng như Các nguyên tắc đôi bên cùng có lợi được nêu tại Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS).
Một chỉ số khác cho thấy sự tập trung mang tính chuẩn mực của AOIP vào các mối quan hệ giữa các quốc gia là tầm quan trọng của Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á (TAC) như là quy tắc ứng xử cho các nước trong khu vực, đặc biệt là về bình đẳng chủ quyền, giải quyết hòa bình các tranh chấp và từ bỏ vũ lực. Điều này một lần nữa là yếu tố cơ bản trong kịch bản của ASEAN nhằm duy trì phép lịch sự và ổn định trong trật tự khu vực đang thay đổi. Bên cạnh TAC, Quan điểm ASEAN còn để ngỏ khả năng phát triển một văn kiện ASEAN phù hợp với khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng lớn hơn. Đây có thể là cách Indonesia duy trì khả năng trong tương lai sẽ khôi phục đề xuất về Hiệp ước Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương do cựu Bộ trưởng Ngoại giao Indonesia Marty Natalegawa đưa ra. Bị gạt sang một bên kể từ khi Indonesia thay đổi chính quyền năm 2014, hiệp ước này nhằm mục tiêu đúc rút các nguyên tắc TAC cho bối cảnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng lớn hơn. Theo lời của ông Marty, đó là khuôn khổ gần giống TAC cho các nước thành viên EAS rộng lớn hơn, phát huy kinh nghiệm của ASEAN trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp và không sử dụng vũ lực để kết nối các nước lớn bên ngoài, cụ thể là Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ.
Về mặt thể chế, không có thiết kế mới nào được đưa ra vì AOIP “không nhằm mục tiêu lập ra các cơ chế mới hay thay thế các cơ chế hiện có”. Nó “đặt vai trò trung tâm của ASEAN làm nguyên tắc nền tảng để thúc đẩy hợp tác trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, với các cơ chế do ASEAN dẫn đầu, chẳng hạn như EAS – một nền tảng cho đối thoại và hợp tác trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. AOIP nhằm mục tiêu khôi phục sức mạnh hiệu triệu và lập ra nghị trình của ASEAN cho hợp tác đa phương trong khu vực thông qua các thể chế do ASEAN dẫn đầu vào thời điểm chủ nghĩa đơn phương đang trên đà trỗi dậy và các hình thức liên kết khác (hai bên, ba bên, bốn bên, đa phương có giới hạn) đang ngày càng nổi bật trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
AOIP tập trung vào việc “củng cố và tối ưu hóa các cơ chế do ASEAN dẫn đầu” nhưng không quy định cách thức thực hiện. Sau đó, AOIP tuyên bố rằng “phải theo đuổi các cuộc thảo luận chiến lược về vấn đề này và các hoạt động hợp tác trên thực tế tại các cơ chế do ASEAN dẫn đầu trong đó có EAS, cơ chế hợp tác ASEAN+1, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), cùng nhiều cơ chế khác”. Trái ngược với tầm quan trọng “rõ ràng, vốn có và có chủ đích của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong tầm nhìn của ASEAN” được nêu tại EAS, AOIP không đề cập đến cơ chế ASEAN+3 (APT) – “phương tiện chính hướng tới mục tiêu lâu dài là xây dựng cộng đồng Đông Á”. Người ta có thể lý giải về mặt chuyên môn rằng tư cách thành viên của APT chỉ giới hạn trong khu vực Thái Bình Dương, do đó không phù hợp với bối cảnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng lớn hơn. Ngoài vị trí địa lý, việc không nhắc đến APT có thể phát đi tín hiệu địa chính trị rằng hiện ASEAN không thể chú trọng đến cộng đồng Đông Á mặc dù đó vẫn là một mục tiêu chính thức lâu dài. Khi ASEAN đẩy mạnh chủ nghĩa khu vực mở rộng từ Đông Á sang châu Á-Thái Bình Dương và hiện tại là Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, bản sắc Đông Á như một khái niệm địa chính trị sẽ tiếp tục suy giảm hơn nữa, bất chấp thực tế rằng sự hội nhập kinh tế bên trong khu vực Đông Á đang ngày càng đi vào chiều sâu (mức đóng góp của Đông Á trong giá trị gia tăng từ xuất khẩu của ASEAN đã tăng từ 35% năm 2005 lên 40% năm 2016, trong khi mức đóng góp của Mỹ giảm từ 20% xuống còn 15%).
Tuy nhiên, việc tiếp nhận khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương theo cách này không có nghĩa là quan điểm chiến lược của ASEAN hiện sẽ vượt quá các động lực phức tạp của quan hệ quốc tế ở khu vực Ấn Độ Dương; nó cũng không cho thấy các cơ chế do ASEAN dẫn đầu sẽ sớm hoan nghênh sự tham gia của các nước vành đai Ấn Độ Dương vì AOIP nêu rõ các định dạng hiện nay của nó sẽ được duy trì lâu dài. Nói cách khác, AOIP vẫn tập trung vào Đông Nam Á trong khi sẽ tiến tới khai thác “sự hợp tác với các cơ chế khu vực và tiểu khu vực khác ở châu Á Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương trong các lĩnh vực cụ thể có lợi ích chung”. Một cơ chế như vậy là Hiệp hội vành đai Ấn Độ Dương (IORA) gần đây đã nhận được sự quan tâm và sự tham gia tích cực của Indonesia. Sự mở rộng về phía Tây này cũng được thúc đẩy nhờ tầm quan trọng ngày càng được chú trọng của Ấn Độ với tư cách là trung tâm quyền lực mới nổi trong trật tự khu vực –với tiềm năng kinh tế và tầm ảnh hưởng chiến lược cần phải được tính đến và tận dụng để mang lại lợi ích cho ASEAN. Đây là sự tiếp nối tầm nhìn chiến lược của ASEAN, vốn sớm đã đảm bảo sự tham gia của Ấn Độ trong ARF, EAS và ADMM+ cũng như trong các cuộc đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Sự thay đổi thuật ngữ với cách tiếp cận định hướng phát triển
Sự thay đổi thuật ngữ sang Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương
Việc coi Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là một khái niệm của ASEAN có lẽ là khía cạnh quan trọng nhất trong AOIP. Trong suốt năm 2018 và cho tới đầu năm 2019, thuật ngữ này vẫn là điểm gây nhiều tranh cãi nhất trong các cuộc tranh luận nội bộ của ASEAN. Một mối quan tâm chủ yếu là việc ASEAN tiếp nhận khái niệm “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” có thể được hiểu là sự xác nhận hay vào hùa với FOIP, điều sẽ gây ra vấn đề kép đối với ASEAN.
Thứ nhất, vẫn chưa rõ FOIP có ý nghĩa chính xác là gì và sẽ được thực thi như thế nào, nhất là trong phạm vi nhóm Bộ tứ. Như nhận xét của Ngoại trưởng Singapore Vivian Balakrishnan, “cái được gọi là Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở vẫn chưa được định hình đủ rõ ràng” và “chúng tôi không bao giờ ký kết bất kỳ thứ gì trừ phi biết chính xác ý nghĩa của nó”. Ngay cả trong số 4 nước thành viên Bộ tứ, dù có chung nền tảng là bảo vệ trật tự khu vực dựa trên các quy tắc và cùng chia sẻ các mối quan ngại chiến lược khi đối đầu với Trung Quốc, mỗi nước lại đưa ra những nhận định khác nhau về cách thức theo đuổi một Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở trong chính sách đối ngoại của riêng họ. Đây có thể là một sự lựa chọn có chủ ý chứ không phải là sự thiếu phối hợp. Malcolm Cook chỉ ra rằng “trong cách tiếp cận, khái niệm khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mang nhiều tính hậu hiện đại hơn so với tính hiện đại. Nó không chính thức, không được xác định hình thức hay định hướng và mang tính ngẫu nhiên”.
Thứ hai, thái độ miễn cưỡng trong việc tiếp nhận “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” của các nước thành viên ASEAN trực tiếp nảy sinh từ mối quan ngại rằng việc tiếp nhận khái niệm này sẽ khiến Trung Quốc hoảng hốt. Bắc Kinh vẫn chưa chấp nhận thuật ngữ này mặc dù “phần trên biển của ‘Vành đai và Con đường’ về cơ bản là Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đặc sắc Trung Quốc”. Cho đến nay, Trung Quốc vẫn duy trì thái độ coi thường FOIP, với việc Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị gọi đó là “đám bọt biển ở Thái Bình Dương hay Ấn Độ Dương – nó có thể nhận được sự chú ý nào đó nhưng sẽ sớm tan biến”. Tuy vậy, đằng sau thái độ coi thường rõ ràng như vậy là thái độ lo âu và e sợ về chiến lược của Bắc Kinh đối với “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” như một thuật ngữ “nặng mùi nghị trình của Mỹ nhằm xây dựng liên minh với Nhật Bản, Úc và Ấn Độ – được gọi là Bộ tứ – về cơ bản là để kiềm chế Trung Quốc”. Khi xét tới sự nhạy cảm của Bắc Kinh đối với thuật ngữ “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” và sự dè dặt của chính ASEAN đối với FOIP, giữa khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của ASEAN với FOIP phải có sự phân biệt định tính.
Cách tiếp cận định hướng phát triển đối với Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương
Để có được sự khác biệt định tính dù tiếp nhận cùng một tên gọi, AOIP hướng sự chú ý từ cạnh tranh chiến lược sang chú trọng hợp tác kinh tế. Nói cách khác, ASEAN muốn vượt qua, đồng thời tận dụng, động lực cạnh tranh nước lớn thông qua cách tiếp cận định hướng phát triển. Cách tiếp cận này chú trọng sự hợp tác cùng có lợi vì một “khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương phát triển và thịnh vượng cho tất cả”. Một mặt, ASEAN công nhận mối quan hệ an ninh-kinh tế trong cuộc tranh luận đang tiếp diễn trong khu vực; đó là đằng sau mỗi sáng kiến kinh tế chủ chốt của các nước lớn là những động lực hoặc hàm ý chiến lược, dù về thương mại hay tính kết nối. Mặt khác, ASEAN tìm cách nói giảm nhẹ về phương diện chiến lược-an ninh và tập trung vào hợp tác phát triển kinh tế trên thực tế.
AOIP không coi sự kết hợp giữa châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương như là một cấu trúc địa lý đơn nhất. Đây là vấn đề thực tế, khi xét tới tính đa dạng trên phạm vi rộng về địa hình, dân tộc, lịch sử, các hình thái xã hội-văn hóa và quan hệ quốc tế trải rộng khắp hai đại dương này. Thay vào đó, AOIP nhìn nhận sự hội tụ giữa hai khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương từ hai góc nhìn – (i) một khu vực hội nhập và kết nối kinh tế năng động, và (ii) một không gian biển liền mạch.
Góc nhìn hội nhập và kết nối kinh tế nhắm tới việc hiện thực hóa những tiềm năng kinh tế từ sự chắp vá các thỏa thuận thương mại tự do hiện có hoặc đang được đàm phán, trong đó có RCEP, cũng như nhiều sáng kiến kết nối đang lan truyền khắp khu vực. Chúng bao gồm Sáng kiến “Vành đai và Con đường” do Trung Quốc dẫn dắt, Quan hệ đối tác cơ sở hạ tầng chất lượng do Nhật Bản dẫn dắt, Tập đoàn tài chính phát triển quốc tế Mỹ, Ngân hàng phát triển châu Á, Ngân hàng phát triển cơ sở hạ tầng châu Á, Kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN và Tiểu vùng sông Mekong mở rộng, cùng nhiều sáng kiến khác.
Góc nhìn này giải thích sự chú trọng vào tính kết nối như một lĩnh vực hợp tác quan trọng trong khuôn khổ AOIP. Nó cũng minh họa cho cách tiếp cận vị lợi nói trên nhằm tìm cách tận dụng sự cạnh tranh giữa các sáng kiến cơ sở hạ tầng của các nước lớn, và đồng thời lảng tránh cuộc tranh luận nhị phân về địa chính trị trong phát triển cơ sở hạ tầng – mà lấy Sáng kiến “Vành đai và Con đường” ra so với Quan hệ đối tác cơ sở hạ tầng chất lượng chẳng hạn. Thay vì lựa chọn một trong hai, quan điểm bao trùm của ASEAN coi trọng việc “kết nối các khả năng liên kết” – tức là xây dựng cầu nối và sự hiệp lực giữa các sáng kiến kết nối khác nhau trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Điều này có ý nghĩa về mặt kinh tế. Như Jeffrey Wilson đã lưu ý, “khoảng trống về cơ sở hạ tầng trong khu vực này lớn đến mức rõ ràng là có đủ không gian cho tất cả. Về bản chất, không có sáng kiến nào tốt hay xấu hơn sáng kiến khác, vì mỗi sáng kiến đều có những lợi ích và rủi ro riêng. Thay vào đó, mô hình quản trị khác nhau của chúng có tiềm năng dẫn tới sự phân chia lao động có lợi, với việc các sáng kiến được kết hợp với những dự án và quốc gia cụ thể phù hợp nhất với mô hình của chúng”.
Quan điểm thứ hai nhìn nhận Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương như một không gian biển liền mạch, do đó tầm quan trọng của nó gắn liền với “lĩnh vực hàng hải và triển vọng trong cấu trúc khu vực đang phát triển”. Hợp tác hàng hải là một trong ba lĩnh vực hợp tác chủ chốt của AOIP, cùng với khả năng kết nối và các mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, AOIP không đề cập đến Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương như “một vũ đài địa chính trị đơn nhất” như Indonesia từng đề xuất trước đây – một thuật ngữ mang những hàm ý quân sự công khai. Chắc chắn ASEAN muốn tránh đề cập đến bất kỳ điều gì mà có thể bị hiểu thành sự tán thành hoặc can dự của họ vào bất kỳ liên kết/liên minh quân sự nào trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Cảm giác thận trọng này bộc lộ rõ trong các vấn đề cụ thể được liệt kê theo phạm vi hợp tác hàng hải trong AOIP. Những mối quan ngại an ninh truyền thống (các tranh chấp biển chưa được giải quyết và quyền tự do hàng hải và hàng không) không gây được ấn tượng so với một loạt các vấn đề kinh tế và hàng hải thiết thực, trong đó có việc khai thác quá mức các nguồn lực trên biển, ô nhiễm biển, tội phạm xuyên quốc gia trên biển, khả năng kết nối trên biển và nền kinh tế xanh, và hợp tác khoa học biển.
Cách tiếp cận định hướng phát triển này nhìn nhận Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là một cấu trúc kinh tế gắn với khả năng kết nối hơn là một hiện tượng do an ninh thúc đẩy này giúp đưa ra một quan điểm trung lập và vô thưởng vô phạt về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của ASEAN – một quan điểm không được sử dụng để đối đầu hay kiềm chế bất kỳ nước nào khác. Thông điệp này chủ yếu có ý nghĩa đối với Trung Quốc, mà ác cảm của họ đối với thuật ngữ “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương” đã được các nước ASEAN khắc sâu vì Bắc Kinh tin rằng chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nhằm mục đích kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Cách tiếp cận tập trung vào phát triển của AOIP cũng mang dấu ấn của chính sách đối ngoại có tính thực dụng của Indonesia dưới thời Chính quyền Jokowi. Chính sách đối ngoại này tìm cách đưa các lợi ích kinh tế của Indonesia đặc biệt là về phương diện khả năng kết nối giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, và những mối quan ngại về nguồn lực từ môi trường trên biển của nước này như rác thải biển và việc đánh bắt cá bất hợp pháp vào nghị trình Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của ASEAN. Một ví dụ thích hợp thể hiện sự thực dụng này là thỏa thuận bán dừa của Indonesia ở tỉnh Aceh cho quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ với mức phí thấp vì hai hòn đảo này ở gần nhau về mặt địa lý. Tiến sĩ Siswo Pramono làm việc tại Bộ Ngoại giao Indonesia nhìn nhận thỏa thuận này là một biểu hiện cụ thể cho quan điểm của ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương: “Đây là khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mà chúng tôi muốn nói. Người dân trực tiếp cảm nhận thấy điều đó. Nó không phải về việc ai muốn kiềm chế ai”.
Kết luận
Mặc dù AOIP không có nghĩa là một sự thay đổi điển hình trong văn hóa chiến lược của ASEAN, nhưng đây là một tài liệu hữu ích cho ASEAN và các nước thành viên. Nó đại diện cho quan điểm riêng của ASEAN giữa lúc có nhiều luận điệu cạnh tranh, do đó mang đến một kịch bản chung cho các nước thành viên ASEAN trong việc ứng phó với những áp lực từ bên ngoài trước việc có một lập trường về “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. Hơn nữa, bằng việc thông qua AOIP mà ưu tiên việc xây dựng cộng đồng và vai trò trung tâm của ASEAN, các nước thành viên ASEAN lựa chọn đứng về phía ASEAN chứ không phải về phía bất kỳ nước lớn nào cho dù họ can dự vào đường hướng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Theo ý nghĩa này, ASEAN mang đến điểm tựa khu vực giữ cho từng nước thành viên không bị chuyển hướng đi theo ý đồ của một nước lớn đối với nước khác.
AOIP cũng khẳng định tiếng nói và khả năng của ASEAN trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, đặc biệt là trong việc khai thác những tiềm năng kinh tế và khả năng kết nối trong khi giải quyết các thách thức cạnh tranh chiến lược. Nó khác với các sáng kiến và nền tảng khác, nhưng tìm kiếm sự hiệp lực và bổ sung ở lĩnh vực nào có thể với chúng. Quan điểm này không phản đối hay tán thành chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở hay bất kỳ tầm nhìn/chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nào khác, nhưng để ngỏ những cơ hội hợp tác khi có sự tâm đầu ý hợp hay cùng chung lợi ích. Bằng việc đảm bảo chính sách “cánh cửa để ngỏ” của ASEAN với tất cả các quốc gia và đối tác, AOIP củng cố những nỗ lực của ASEAN nhằm duy trì sự đa cực trong khu vực. Mặc dù ASEAN phải cẩn thận để không vươn xa quá mức, nhưng việc mở rộng các phạm vi chiến lược của mình hướng tới khu vực Ấn Độ Dương có thể mở ra các cơ hội và quan hệ đối tác mới cho ASEAN và các nước thành viên trong khi tránh được tình trạng phụ thuộc quá mức hay những lựa chọn nước đôi với các nước lớn.
Tuy nhiên, không rõ liệu AOIP có bất kỳ tác động đáng kể nào đối với quan điểm chiến lược của các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc hay không. Cả hai nước này đều lên tiếng ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong khi tăng cường sự cạnh tranh chiến lược của họ bằng mọi cách trừ chiến tranh, ví dụ như việc đơn phương đưa ra những hạn chế về thương mại có tính ăn miếng trả miếng, các biện pháp kiểm soát xuất khẩu công nghệ, các cuộc tập trận quân sự với các đồng minh và đối tác cùng chung chí hướng, và chủ nghĩa dân tộc đang nung nấu ở trong nước. Ngoài ra, mặc dù AOIP là một hành động cân bằng trong cuộc đấu này, nhưng nó lại là một hướng dẫn hạn chế cho các nước thành viên trong việc đưa ra những quyết định ở cấp quốc gia về các vấn đề an ninh-kinh tế mà mang theo các tác động chiến lược, ví dụ như liệu có nên sử dụng thiết bị của Huawei để xây dựng mạng 5G trước lệnh cấm của Mỹ hay không. Theo quy chuẩn mà nói thì trật tự khu vực phải là bao trùm và kết hợp những sáng kiến khác nhau; tuy nhiên ngày càng khó có thể duy trì nguyên tắc này trong khi chuỗi cung ứng toàn cầu đang có nguy cơ chia tách thành hai hệ sinh thái – một do Mỹ lãnh đạo và một do Trung Quốc điều khiển.
Hoàng Thị Hà, Trung tâm Nghiên cứu ASEAN, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS). Bài viết đăng trên ISEAS.
Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông