Dự báo chính sách Châu Á – Thái Bình Dương của chính quyền Biden

Nguồn: Robert A Manning, “A Biden presidency’s impact on the Asia Pacific”, East Asia Forum, 08/11/2020.

Người dịch: Trần Hùng

Có thể mất vài tuần trước khi cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ có kết quả cuối cùng, mặc dù tình hình cho thấy có thể có một chính phủ chia rẽ giữa Tổng thống Joe Biden và một Thượng viện do Đảng Cộng hòa kiểm soát. Tuy vậy, chính sách của Hoa Kỳ đối với Châu Á Thái Bình Dương sẽ có nhiều sự tiếp nối hơn thay đổi, dù sự chuyển biến về giọng điệu sẽ là rõ rệt.

Tổng thống Biden sẽ không xóa bỏ mọi thứ trong bốn năm qua, và cũng sẽ không thể xóa bỏ được thứ chủ nghĩa dân túy đã ăn sâu ở Hoa Kỳ, nhưng sẽ làm được nhiều điều để ngăn chặn sự “chảy máu” tiếp diễn. Mong muốn khắc phục các vấn đề của Biden sẽ bị hạn chế bởi việc Đảng Dân chủ không kiểm soát được Thượng viện.

Một chiến thắng dành cho Donald Trump có thể sẽ dẫn đến căng thẳng hơn nữa trong nội bộ, nếu không muốn nói là làm rạn nứt các liên minh của Hoa Kỳ. Có tin đồn ở Washington rằng Trump có thể đang cân nhắc rút Mỹ khỏi NATO và giảm quân ở cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong khi đó, Biden, với một nhóm các chuyên gia châu Á kỳ cựu trong chính quyền của mình, sẽ duy trì và tìm cách tăng cường các liên minh, bao gồm cả với Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia. Điều đó sẽ tốt cho sự răn đe.

Biden sẽ thúc đẩy các giá trị của Hoa Kỳ, đề cao một liên minh các nền dân chủ tại hội nghị thượng đỉnh toàn cầu các nền dân chủ vào năm 2021 như một điểm tựa để chống lại các xu hướng độc tài và định hình lại trật tự thế giới đang rạn nứt. Nhưng một số nước châu Á cũng có thể coi đó là một áp lực buộc họ phải lựa chọn chống lại Trung Quốc.

Về chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc, có sự đồng thuận lưỡng đảng rằng Trung Quốc là một ‘đối thủ cạnh tranh chiến lược’. Điều đó sẽ không thay đổi dưới thời Biden. Nhưng có những khác biệt quan trọng về ý nghĩa chính xác của khái niệm đó. Chính quyền Trump đã không xác định các khái niệm, phạm vi và giới hạn mức độ cạnh tranh. Thay vào đó, Trump đã ác quỷ hóa Trung Quốc, theo đuổi sự tách rời kinh tế và tuyên truyền chống lại Đảng Cộng sản Trung Quốc trong các bài phát biểu của các quan chức hàng đầu Hoa Kỳ. Ngoại trưởng Mike Pompeo lập luận “nếu chúng ta không thay đổi Đảng Cộng sản, nó sẽ thay đổi chúng ta”. Người ta có thể có lý do để kết luận, như cách suy nghĩa của Bắc Kinh, rằng mục đích ở đây là tìm cách thay đổi chế độ Trung Quốc.

Ngược lại, Biden có thể sẽ tìm cách ngăn chặn vòng xoáy đi xuống của quan hệ Mỹ – Trung, với hy vọng xây dựng một khuôn khổ cho sự chung sống nhưng cạnh tranh lẫn nhau. Hai cố vấn hàng đầu của Biden, Kurt Campbell và Jake Sullivan, đã viết trên tờ Foreign Affairs rằng “mục tiêu phải là thiết lập các điều khoản chung sống thuận lợi với Bắc Kinh trong bốn lĩnh vực cạnh tranh chính – quân sự, kinh tế, chính trị và quản trị toàn cầu”. Điều này sẽ đòi hỏi một chính sách ngoại giao bền vững và linh hoạt, sự ủng hộ ở trong nước và kiềm chế các hành vi quyết đoán của Trung Quốc. Biden gần như chắc chắn sẽ rời xa cách tiếp cận chỉ đối đầu song phương, đồng thời xây dựng các liên minh đa phương dựa trên những mối quan ngại chung. Bắc Kinh tìm kiếm sự ổn định và có khả năng sẽ cung cấp một cơ hội để kiểm tra khả năng của Biden trong việc cài đặt lại quan hệ Mỹ – Trung.

Về các vấn đề kinh tế và công nghệ Mỹ – Trung, có thể sẽ có một cách tiếp cận thận trọng hơn dưới thời Biden. Các thành viên Đảng Dân chủ cũng nghi ngờ về tự do thương mại không kém so với phía Cộng hòa, nhưng chính quyền Biden có thể sẽ hợp tác chặt chẽ với Liên minh châu Âu, Nhật Bản và Australia để thúc ép Trung Quốc giải quyết các lo ngại thương mại chung của họ trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới, tổ chức mà Biden sẽ nỗ lực cải cách. Những bất bình đó bao gồm các vấn đề trợ cấp của nhà nước, ép buộc chuyển giao công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ cũng như các quy tắc và tiêu chuẩn cho công nghệ mới nổi như trí tuệ nhân tạo và 5G.

Cũng sẽ có một sự giảm hội nhập kinh tế chừng mực và có chọn lọc hơn so với sự tách rời kinh tế nửa vời. Về công nghệ, Hoa Kỳ đã âm thầm tạo ra một cách tiếp cận lưỡng đảng hướng tới chính sách công nghiệp để cạnh tranh tốt hơn trong ngành bán dẫn, 5G và các công nghệ mới nổi khác mà Biden ưu tiên. Bắc Kinh đã mở cửa các thị trường một cách có chọn lọc, chủ yếu là trong ngành tài chính và ô tô, và Biden có thể tìm cách gia hạn các cuộc đàm phán về hiệp ước đầu tư song phương.

Quan hệ Mỹ – Trung ít biến động hơn sẽ ảnh hưởng đến chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nói chung. Phạm vi ảnh hưởng quân sự của Hoa Kỳ mở rộng dưới thời Trump, giúp hiện thực hóa trên thực tế chiến lược xoay trục mà Obama hứa hẹn, điều sẽ khó có thể bị đảo ngược dưới thời Biden. Thay vào đó, việc tăng cường các liên minh và quan hệ đối tác của Hoa Kỳ trong khu vực cũng như mở rộng mạng lưới hợp tác an ninh không chính thức, bao gồm cả Bộ tứ, có thể sẽ xảy ra.

Biden có thể sẽ ít phiến diện hơn về chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, chú trọng nhiều hơn vào ngoại giao khu vực để giải quyết các vấn đề an ninh và quan hệ kinh tế. Nếu không có nền tảng kinh tế vững chắc, chiến lược Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có thể trở nên trống rỗng và không bền vững. Với việc Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được mở rộng dưới sự lãnh đạo của Tokyo và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) đang dần trở thành hiện thực (Hoa Kỳ đều không tham gia cả hai hiệp định này), câu hỏi ở đây là liệu Biden có tái gia nhập TPP không. Ông đã bày tỏ sự quan tâm đến việc tái gia nhập với điều kiện các bên còn lại phải sẵn sàng sửa đổi hiệp định để giải quyết các mối quan tâm của Hoa Kỳ. Điều này có thể phụ thuộc vào vốn liếng chính trị mà Biden có để giành được sự chấp thuận của Quốc hội.

Vấn đề an ninh trước mắt có thể là việc chính quyền Biden sẽ giải quyết vấn đề hạt nhân Triều Tiên như thế nào. Ông kế thừa hơn 25 năm ngoại giao thất bại của Hoa Kỳ, và thực tế rằng Bình Nhưỡng đã là một quốc gia có vũ khí hạt nhân trên thực tế. Nếu quá khứ là chỉ dấu cho tương lai, Biden sẽ được chào đón bằng sự khiêu khích, có thể là một vụ thử tên lửa SLBM hoặc ICBM, dẫn tới một không khí giống như khủng hoảng. Biden nói rằng ông sẽ sẵn sàng tham dự một hội nghị thượng đỉnh nếu các liên hệ ngoại giao cấp độ làm việc tạo điều kiện cho một giải pháp.

Câu hỏi đặt ra cho chính quyền mới là liệu có nên theo đuổi một thỏa thuận kiểm soát vũ khí hay không. Việc đặt ra giới hạn số lượng vũ khí hạt nhân và đóng băng số lượng đó, có lẽ đi kèm với việc ngừng phát triển các tên lửa, là một lựa chọn rất đáng để khám phá. Nhưng các thỏa thuận trước đây đều đổ vỡ do thiếu minh bạch. Điều kiện tiên quyết cho bất kỳ lựa chọn đóng băng hạt nhân nào sẽ là một tuyên bố đầy đủ và đáng tin cậy về kho hạt nhân của Triều Tiên, cũng như sự xác minh và giám sát đầy đủ của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế. Cả hai điều này đều rất khó xảy ra.

Biden đối mặt với quá nhiều vấn đề cần chú ý ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Từ COVID-19 tới suy thoái, vì vậy khu vực nên nhớ rằng chính quyền mới sẽ rất có nhiều vấn đề khiến họ bận tâm. Biden có kinh nghiệm lâu năm trong Ủy ban Đối ngoại Thượng viện và từng là phó tổng thống phụ trách chính sách đối ngoại. Nhưng bảng thành tích của ông có hai mảng lẫn lộn, tốt có, dở có. Những gì châu Á có thể mong đợi từ chính quyền mới của Hoa Kỳ sẽ phụ thuộc vào các bài học kinh nghiệm được rút ra và việc tình hình chính trị trong nước ở Mỹ sẽ cho phép họ có thể hành động lý trí tới mức nào.

Robert A Manning là nghiên cứu viên cao cấp tại Trung tâm Chiến lược và An ninh Brent Scowcroft thuộc Hội đồng Đại Tây Dương, và là thành viên Sáng kiến ​​Tầm nhìn Chiến lược của tổ chức này.

Liệu Biden có nhu nhược trong đối ngoại như Obama?