Tác giả: Nguyễn Hải Hoành
Trung Quốc trỗi dậy là sự kiện quan trọng nhất thế giới kể từ cuối thế kỷ 20 và sự kiện đó đang khiến người ta e sợ hoặc ít nhất là e ngại. Tờ Washington Post ngày 14/9/2011 viết: Điều chúng ta thực sự cần lo sợ là Trung Quốc.
Lịch sử loài người cho thấy khi một cường quốc toàn cầu ra đời thì tình hình thế giới sẽ khác trước, vì cường quốc đó sẽ đòi hỏi thay đổi trật tự quốc tế hiện hành về phía có lợi cho mình. Khi ấy, các nước lớn và các láng giềng của tân cường quốc cần có cách ứng xử khéo léo để tránh xảy ra xung đột quân sự. Hai cuộc Thế chiến đã qua là minh chứng không ai quên được.
Từ ngày trở thành siêu cường, nước Mỹ nhạy cảm hơn hết với bất kỳ cường quốc nào mới xuất hiện và luôn tìm cách “cân bằng” quyền lực của tân cường quốc đó. Sách “Giấc mơ Trung Quốc” của Lưu Minh Phúc cho biết: ngay từ năm 1942, Mỹ đã chủ trương cân bằng [kiềm chế] quyền lực của Trung Hoa Dân quốc do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo, dù Tưởng thân Mỹ.
Có nhiều cách “cân bằng” tân cường quốc. Nhà báo Mitchell Reiss viết trên trên tạp chí Foreign Policy: Nhiều năm nay những người Mỹ hiểu Trung Quốc đều hy vọng: Buôn bán với Trung Quốc sẽ đem lại lợi ích cho Mỹ; Sẽ truyền được đạo Ki Tô vào Trung Quốc; Trung Quốc sẽ trở thành một nước phồn vinh.
Sang thế kỷ 21 Mỹ lại có thêm hy vọng thứ 4: Trung Quốc trở thành một bên có trách nhiệm trong hệ thống quốc tế. Một đại sứ Mỹ nói: Chúng ta cứ nghĩ rằng Trung Quốc giàu lên sẽ càng dân chủ, nhưng đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng dù nước họ giàu lên thì đảng này vẫn thống trị Trung Quốc. Chỉ có thể xảy ra một trong hai kết quả đó –– dân chủ hoặc chuyên chế; nhưng Mỹ không thể dự đoán kết quả, chỉ có thể trình bày nguyện vọng.
Reiss nói Mỹ có 5 nguyện vọng với Trung Quốc: không cố ý ép tỷ giá đồng Nhân dân tệ; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển; cùng Mỹ đề xuất chính sách năng lượng sạch; giải quyết hoà bình tranh chấp biên giới và trên biển; hợp tác trên vấn đề cấm phổ biến vũ khí hạt nhân. Reiss không cho rằng Trung Quốc sẽ thực hiện 5 nguyện vọng này.
Mỹ đang đứng trước thách thức lớn: cần phân biệt nỗ lực nào của Trung Quốc là qua bàn bạc để điều chỉnh hợp lý trật tự thế giới hiện có, và nỗ lực nào muốn lật đổ trật tự ấy. Tức phải làm rõ hành vi nào của Trung Quốc mà Mỹ có thể và không thể dung thứ được –– Reiss kết luận.
Thái độ cứng rắn của Bắc Kinh trên vấn đề Biển Đông và đảo Senkaku/Điếu Ngư và việc Mỹ tham dự cả hai vấn đề này đang làm tình hình châu Á-Thái Bình Dương nóng lên. Trung Quốc đã không thành công trong việc chống lại xu thế quốc tế hóa giải quyết vấn đề Biển Đông, nay lại phải chịu nhiều sức ép quốc tế mới. Từ chối bàn bạc tay ba vấn đề chủ quyền đảo Senkaku/Điếu Ngư, từ chối yêu cầu nâng tỷ giá đồng Nhân Dân Tệ –– tất cả chỉ làm cộng đồng quốc tế tăng sức ép lên Trung Quốc và họ cảm thấy lời cam kết Trung Quốc lớn mạnh sẽ không xưng bá, sẽ hòa hợp với mọi quốc gia ngày một trở nên vô nghĩa.
Giờ đây các nước liên quan e ngại nhất là chẳng thể dự đoán Trung Quốc sẽ hành động ra sao. Nước này luôn khó hiểu, không minh bạch, họ nghĩ rằng hành xử kiểu mưu lược Tôn Tử: “trá 诈” (lừa dối, ngược với minh bạch) là hay nhất; trong khi thế giới đang cần minh bạch hơn bao giờ hết. Rõ ràng, Trung Quốc chỉ càng thiệt thòi khi mọi người, nhất là những người hàng xóm, e sợ mình; vì khi ấy họ sẽ ngả theo một cường quốc khác –– dĩ nhiên là Mỹ. Trung Quốc đã nhận ra gần đây họ bị cô lập, thêm thù bớt bạn.
Song thực ra thế giới có cần phải e sợ Trung Quốc đến thế không?
Nhiều chuyên gia sừng sỏ đã lên tiếng trấn an mọi người. Gần đây có bài Cái nhãn siêu cường được gán quá sớm cho Trung Quốc của Malcolm Rifkind, đương kim chủ tịch Ủy ban An ninh và Tình báo của Quốc hội Anh. Sớm hơn, có sách 100 năm tới: một dự đoán thế kỷ 21 của George Friedman, Chủ tịch Công ty Dự báo chiến lược Stratfor, một think tank phi chính phủ hàng đầu thế giới từng dự báo chính xác một số sự kiện chiến lược. Ông dự đoán Nhật, chứ không phải Trung Quốc, mới là đối thủ của Mỹ ở châu Á –– điều trùng hợp kỳ lạ là từ năm 2005 tướng Lưu Á Châu chính ủy Đại học Quốc phòng Trung Quốc cũng nhận định như vậy.
Thời báo Hoàn Cầu (Trung Quốc) hôm 1/11/2010 đưa tin John Howard cựu Thủ tướng Australia dự đoán: Trước cuối thế kỷ 21, Ấn Độ sẽ thay thế Trung Quốc trở thành quốc gia chiếm địa vị chi phối ở châu Á.
Đúng là sức mạnh kinh tế và quân sự của Trung Quốc đang vươn lên theo hướng đuổi kịp Mỹ. Song nên nhớ rằng, trong thời đại hạt nhân, chỉ có kẻ điên mới gây ra chiến tranh giữa các cường quốc, vì khi ấy cả hai bên, thậm chí cả thế giới đều bị hủy diệt. Bởi vậy chớ nên đánh giá quá cao sức mạnh cứng, trong khi sức mạnh mềm mới là cái đáng quan tâm hơn. Mà về mặt này thì Trung Quốc còn rất yếu, mặc dù mới đây họ đã vung hàng tỷ Nhân dân tệ để tăng cường hệ thống truyền thông cũng như mua chuộc một số nước Á, Phi, đã mở hàng nghìn Học viện và Lớp học Khổng Tử trên toàn cầu để dạy chữ Hán và truyền bá Khổng học, một học thuyết về chính trị chuyên chế. Đã nhiều lần Bắc Kinh kêu gọi dân nước họ cần có niềm tự hào về văn hóa của mình –– từ đó suy ra văn hóa nước này còn chưa mạnh đến mức đủ để tự hào.
Sức mạnh cứng của Trung Quốc cũng chưa theo kịp Mỹ. Hiện nay GDP đầu người của Trung Quốc còn kém xa Mỹ. Họ chưa có nhiều các công ty toàn cầu xuất sắc như Mỹ, chưa có hệ thống sáng tạo mới hùng hậu về kinh tế, khoa học kỹ thuật như Mỹ.
Quân đội Mỹ thực sự có tính toàn cầu, đang tiến tới thực hiện trong vòng 120 phút có thể tiêu diệt bất cứ mục tiêu nào trên Trái Đất. Mỹ đã thử thành công máy bay vũ trụ không người lái X-37B: sau 244 ngày bay trên quỹ đạo Trái Đất, hôm 3/12/2010, X-37B đã tự động hạ cánh xuống sân bay xuất phát. Quân đội Trung Quốc thì mới bắt đầu học cách tác chiến tầm xa. Một chuyên gia quân sự Trung Quốc đánh giá sức mạnh quân sự của họ chỉ bằng 1/8-1/5 của Mỹ.
Cách thực thi sức mạnh cứng là cưỡng bức và mua chuộc (cây gậy và củ cà-rốt). Cách thực hiện sức mạnh mềm là thu hút. Sức mạnh cứng dựa trên cơ sở vật chất, sức mạnh mềm dựa trên cơ sở tư tưởng, quan niệm về giá trị.
Tác giả sách Giấc mơ Trung Quốc nhận xét: Mỹ giỏi chiếm các đỉnh cao đạo đức trên thế giới, họ xuất khẩu các giá trị quan tự do, dân chủ, nhân quyền, bình đẳng có sức thu hút toàn cầu. Trung Quốc chỉ mới đề xuất giá trị quan “thế giới dân chủ” và “thế giới hài hòa” (nhưng chưa ai biết nó thế nào). Truyền thông Trung Quốc cho biết: mới đây Chủ tịch Tập Cận Bình có đưa ra thuyết “Xây dựng một Cộng đồng chung vận mệnh của nhân loại”.[1]
Nhà bình luận chính trị Trung Quốc Trịnh Vĩnh Niên (Giám đốc Viện Đông Á thuộc Đại học Quốc gia Singapore) nhận định đại ý: Mỹ được thế giới chấp nhận [làm bá chủ thế giới] là do họ có ưu thế chiến lược về nhiều mặt, như chính trị, kinh tế, quân sự và văn hoá. Nhưng Trung Quốc ngày nay ngoài sự trỗi dậy về kinh tế ra thì chưa có ưu thế chiến lược nào có thể được các quốc gia khác chấp nhận.
Trong “Bài nói tại cuộc tọa đàm về công tác triết học khoa học xã hội” (Nhà xuất bản Nhân dân, 2016), Chủ tịch Tập Cận Bình nhận xét: “Trên các lĩnh vực mệnh đề học thuật, tư tưởng học thuật, quan điểm học thuật, tiêu chuẩn học thuật và lời lẽ học thuật, năng lực và trình độ của ta còn chưa tương xứng lắm với quốc lực tổng hợp và địa vị quốc tế của ta.”
Cuối thập niên 1990, để làm yên lòng những người lo ngại Anh Quốc trả lại Hong Kong cho Trung Quốc thì nước này sẽ mạnh lên và đe dọa thế giới, Thủ tướng Thatcher nói: “Các bạn chẳng cần e ngại Trung Quốc, vì trong vài chục năm tới, thậm chí cả trăm năm, nước này không thể mang lại cho thế giới bất kỳ một tư tưởng mới nào cả.”
Tư tưởng, học thuyết là sản phẩm của giới triết gia, học giả. Tướng Lưu Á Châu nói: “Trung Quốc không có nhà tư tưởng, chỉ có nhà mưu lược. Hegel nói Trung Quốc không có triết học. Tôi cho rằng mấy nghìn năm nay Trung Quốc chưa sản sinh được nhà tư tưởng nào.” Dưới thể chế chính trị hiện nay nước này lại càng khó sinh ra được những nhà chính trị học như Huntington, Paul Kennedy, Nye … cha đẻ các học thuyết hiện đang làm cả thế giới quan tâm.
Thái độ của Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông và đảo Senkaku/Điếu Ngư cho thấy họ chưa có được cách tư duy và ứng xử của một cường quốc toàn cầu lão luyện như Mỹ. Đòi hỏi quá đáng và thiếu khôn ngoan coi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” ngang với Tây Tạng, Đài Loan khiến Trung Quốc bị rơi vào cái bẫy của Mỹ: càng cứng rắn thì càng đẩy ASEAN về phía Mỹ.
Người đầu tiên “mời” Mỹ trở lại Đông Nam Á là chính khách lão luyện Singapore, ông Lý Quang Diệu quê gốc Quảng Đông, vốn rất thân Trung Quốc. Giờ đây Singapore nói họ giữ khoảng cách như nhau với Mỹ và Trung Quốc, tuy rằng từ lâu họ đã cho Mỹ tiếp cận căn cứ quân sự tại Singapore. Ông Lý “mời” Mỹ từ cuối năm 2009, Mỹ chưa trả lời. Nhưng sau vụ Trung Quốc gây gổ ở biển Đông và đảo Senkaku/Điếu Ngư thì tháng 7 năm 2010 tại Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) lần thứ 17 ở Hà Nội, bà Hillary tuyên bố Mỹ trở lại châu Á. Cú ra đòn bất ngờ này khiến Ngoại trưởng Dương Khiết Trì giận dữ bỏ cuộc họp ra ngoài lau mồ hôi trán, và hơn một giờ sau, khi trở lại phòng họp, ông hướng về phía Ngoại trưởng Singapore lớn tiếng nói một câu gây sốc: “Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là các nước nhỏ, đó là một thực tế”. Xem ra ông ta có ý nhắc nhở ASEAN nên biết sợ Trung Quốc, một nước lớn.
Cũng cần lưu ý rằng nỗi e sợ Trung Quốc còn bắt nguồn từ những hiểu nhầm.
Ví dụ, thấy Mỹ là con nợ của Trung Quốc, người ta nghĩ rằng Mỹ sẽ phải nghe theo cây gậy chỉ huy của chủ nợ. Thực ra số công trái Mỹ do Trung Quốc sở hữu chỉ chiếm có 7% tổng số công trái Mỹ đã phát hành, chẳng thể gây sức ép với Mỹ được. Chính vì thế Trung Quốc vẫn tiếp tục mua thêm công trái Mỹ chứ chẳng hề bán đi để làm cho đồng USD mất giá, như “hiến kế” của một số tướng tá nước này muốn ép Mỹ bớt cứng rắn với Bắc Kinh. Đô la Mỹ mất giá thì mấy nghìn tỷ USD công trái Mỹ mà Trung Quốc nắm sẽ thành đống giấy vụn.[2] Gần đây Trung Quốc phản đối Fed in tiền mua 600 tỷ USD công trái Mỹ là một ví dụ cho thấy họ đang lo đồng USD mất giá.
Một hiểu nhầm nữa là cho rằng mô hình Trung Quốc ưu việt nên kinh tế mới tăng trưởng nhanh lâu dài và vượt qua cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Tuy nhiên, mô hình dựa trên nhân công rẻ và xuất khẩu đang đi tới hồi kết; sự phát triển kiểu tàn phá môi sinh và cướp bóc tài nguyên cũng không thể tiếp tục.
Nên chú ý là trong một tương lai gần, cơ cấu dân số Trung Quốc bắt đầu đảo ngược: già hóa và thiếu nhân công nghiêm trọng, trong khi Mỹ luôn hưởng lợi từ dòng người nhập cư bất tận.
Một nhà báo Singapore viết: Có thể ví Trung Quốc như một quần đảo gồm một số hòn đảo hiện đại có 450 triệu dân bị bao bọc bởi một dãy đảo chưa hiện đại có hơn 800 triệu dân [ý nói Trung Quốc vùng ven biển trù phú có 450 triệu dân, vùng phía Tây lạc hậu có 800 triệu dân]. Phần lớn du khách nước ngoài thăm Trung Quốc đều chưa đến “dãy đảo” này. Vì thế họ hiểu nhầm Trung Quốc. Ít nhất nước này cần vài chục năm nữa mới trở thành một nước hoàn toàn phát triển. Nhưng từ nay đến lúc ấy chưa biết sẽ xảy ra điều gì.
Nhiều người nói Trung Quốc có quá nhiều biến số: đang biến động về giá trị quan, tình cảm xã hội, các sự kiện cực đoan, vấn đề dân tộc, phân hóa giàu nghèo, mâu thuẫn giai cấp v.v… Chính người Trung Quốc cũng lo về tương lai nước họ. Một blogger viết: Không ai có thể đánh bại Trung Quốc, trừ chính người Trung Quốc chúng ta. Quả thật “Nội tranh” [đấu đá trong nước] là nguyên nhân chủ yếu từng làm các vương triều nước này sụp đổ. Thủ tướng Ôn Gia Bảo từng cảnh báo: Không tiến hành cải cách thế chế chính trị thì Trung Quốc có thể mất những gì đã đạt được trong quá trình tái cơ cấu kinh tế và các mục tiêu hiện đại hóa cũng có thể không thành công. Nếu Trung Quốc cải cách chính trị theo hướng của Thủ tướng Ôn thì thế giới sẽ hoan nghênh. Nhưng xem ra hy vọng đó rất mong manh, và điều ấy sẽ làm giảm sức mạnh của cường quốc này. ■
————–
[1] Trung văn: 构建人类命运共同体; tiếng Anh: Building a Community of Shared Future for Mankind. Do Tập Cận Bình đưa ra ngày 23/3/2013 trong chuyến thăm Nga, đã được viết vào Điều lệ ĐCSTQ và Hiến pháp TQ.
[2] Theo báo TQ, năm 2012 TQ đã mua 1244 tỷ USD (hoặc 25%) công trái Mỹ và thường xuyên được trả lãi đúng hạn (hơn 30 tỷ USD/năm), nhưng TQ không có kênh đầu tư ngoại tệ nào an toàn hơn là tiếp tục mua công trái Mỹ.