Noah Webster và cuộc chiến giành độc lập ngôn ngữ cho nước Mỹ

Tác giả: Nguyễn Hải Hoành

Trong lịch sử ngắn ngủi của mình, nước Mỹ từng sản sinh ra không ít nhân vật kiệt xuất trên hầu như mọi lĩnh vực hoạt động của nhân loại, trong đó có ngôn ngữ, một lĩnh vực vô cùng quan trọng. Hiếm người Mỹ nào không biết tên tuổi của Noah Webster (1758-1843), tác giả bộ Từ điển tiếng Anh của người Mỹ –– American Dictionary of the English Language, xuất bản năm 1828, cột mốc đánh dấu thắng lợi của nước Mỹ trong cuộc chiến giành độc lập trên lĩnh vực ngôn ngữ.

Webster trở thành con người huyền thoại của nước Mỹ không phải chỉ vì ông soạn ra American Dictionary of the English Language –– bộ từ điển lớn nhất thế giới thời bấy giờ với hai tập gồm 70 nghìn mục từ kèm định nghĩa, trong đó 12 nghìn mục từ chưa từng có trong các từ điển trước đó, cũng không phải chỉ vì thời gian làm từ điển chiếm mất phần lớn cuộc đời ông, mà là ở chỗ bộ từ điển này đã làm cho nước Mỹ trở nên độc lập với Anh Quốc về các mặt ngôn ngữ, văn hóa, giáo dục, sau khi nước này đã giành được độc lập về chính trị vào năm 1776.

Bộ từ điển nói trên đã xác định tư cách độc lập của tiếng Anh kiểu Mỹ, phản ánh âm đọc, thói quen cách ghép vần viết chữ, là bộ từ điển đầu tiên có đặc sắc ngôn ngữ và văn hóa dân tộc Mỹ; nó đặt nền móng cho việc biên soạn các cuốn từ điển tiếng Anh kiểu Mỹ sau này. Do đó có người gọi nó là phát súng cuối cùng trong cuộc chiến tranh giành độc lập của nước Mỹ. Còn Noah Webster được tôn vinh là Người cha của học thuật và giáo dục Mỹ (Father of American Scholarship and Education).

Noah Webster chào đời tại West Hartford, bang Connecticut. Năm 20 tuổi (1778) ông tốt nghiệp Đại học Yale, sau đó làm nghề dạy học và năm 1781 nhận được chứng chỉ Luật sư. Trong khi dạy học ở Goshen, New York, ông phát hiện các sách thiếu nhi ít viết về văn hoá Mỹ. Rất không hài lòng với điều đó, năm 24 tuổi (1782) Webster quyết định dùng toàn bộ phần còn lại của đời mình vào việc xây dựng một nền giáo dục dành riêng cho người Mỹ, bắt đầu với công việc xây dựng bộ ngữ pháp tiếng Anh, đầu tiên là biên soạn cuốn Sách đánh vần của người Mỹ (The American Spelling Book), tức cuốn The Blue-backed Speller [Sách đánh vần (có bìa màu) xanh], xuất bản khi tác giả mới 25 tuổi (1783). Cuốn sách lừng danh này từng in nhiều lần, đến năm 1900 đã bán được 70 triệu bản, tổng cộng đã bán được hơn 100 triệu bản (chỉ kém số bản in Kinh Thánh), mang lại nguồn thu nhập lớn cho ông.

Noah Webster cho rằng người Mỹ phải có một bộ từ điển riêng của mình chứ không thể cứ dùng mãi Từ điển tiếng Anh (A Dictionary of the English Language) do văn hào người Anh Samuel Johnson (1709-1784) biên soạn trong thời gian 9 năm và xuất bản năm 1755 –– bộ từ điển tiêu chuẩn đầu tiên trong lịch sử tiếng Anh và cũng là duy nhất trong suốt 1 thế kỷ sau đó. Song Webster không vừa lòng với bộ từ điển ấy, thậm chí ông còn quá lời nói nó chẳng có trang nào là chính xác cả. Ông kiên trì quan điểm người Mỹ phải có một cuốn từ điển riêng với những đặc sắc rõ rệt, phải bao gồm các từ ngữ hình thành trong quá trình quốc gia này trưởng thành.

Trong một luận văn về Anh ngữ công bố năm 1789, ông công bố lời tuyên chiến ngôn ngữ với Anh ngữ tiêu chuẩn (King’s English): “Là một quốc gia độc lập, danh dự của chúng ta yêu cầu chúng ta có một thể chế của mình, về ngôn ngữ cũng như về chính quyền. Chúng ta là con của nước Anh, chúng ta nói tiếng Anh, nhưng nước Anh không còn là tiêu chuẩn của chúng ta nữa.” Rõ ràng Webster là người phát động cuộc chiến tranh giành độc lập ngôn ngữ cho nước Mỹ.

Từ năm 1798 đến 1828, Webster tập trung toàn bộ sức lực vào việc biên soạn từ điển. Để làm việc đó, ông đã lao vào học ngoại ngữ. Có tài liệu nói ông đã học 26 ngoại ngữ như tiếng Hy Lạp, La Tinh, Hebrew (Do Thái), Pháp, Đức, Đan Mạch, Anh ngữ cổ (Old English, tức Anglo-Saxon), Ba Tư, cùng 7 thứ tiếng châu Á và tiếng Assour, ngôn ngữ quan trọng nhất trong ngữ hệ Semite. Ngoài ra ông còn đi khắp nước Mỹ để khảo sát, ghi chép cách phát âm tiếng Anh của dân Mỹ các địa phương và các từ ngữ. Trên cơ sở vốn kiến thức phong phú ấy, ông bắt đầu biên soạn Từ điển.

Mới đầu Webster dự định dùng từ 3 đến 5 năm để làm việc đó, nhưng trên thực tế việc soạn từ điển đã mất thời gian gấp nhiều lần dự tính. Ông nói: Công việc này rất gian khổ song ý nghĩa của nó đối với tổ quốc thì lớn hơn rất nhiều so với cá nhân tôi. Tôi sẽ bắt chước thần Hercules vượt qua muôn vàn khó khăn dốc sức vào công việc và tin rằng nhất định sẽ thành công.

Trong các chuyến đi, ông sưu tầm được một loạt từ ngữ mới của người Mỹ, như applesauce, bullfrog, chowder, handy, hickory, succotash, tomahawk, và skunk (một động vật có mùi đặc biệt)… và đưa tất cả vào từ điển. Trong quá trình tạo dựng ngôn ngữ Mỹ, ông đã truyền thụ cho dân tộc này phương pháp đánh vần mới. Ông bỏ chữ u trong các từ honour, humour, labour…, bỏ chữ k trong các từ musickpublick. Ông đổi vị trí cho hai chữ cuối trong các từ centretheatre, và Mỹ hoá cách ghép vần các đơn từ waggon, ploughgaol.

Trong việc ghi chép và giải thích ngôn ngữ mang đặc sắc Mỹ, Webster có chủ trương riêng của mình. Ví dụ khi giải thích từ bình đẳng (equal/equality), ông cho rằng trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 do Jefferson dự thảo và được đại biểu 13 thuộc địa ký, việc hiểu khái niệm bình đẳng là Người ta sinh ra đã bình đẳng (All Men are created equal) là chưa thỏa đáng. Ông cho rằng bình đẳng là nói sự bình đẳng về cơ hội sau khi con người sinh ra chứ không phải là sự bình đẳng đồng đều về điều kiện hoàn cảnh bẩm sinh. Ngoài ra ông cũng không tán thành hiểu từ tự do  (freedom/liberty) trên ý nghĩa phổ biến: trong đầu óc công chúng, từ này được giải thích là người ta có thể làm mọi việc theo ý muốn của mình. Webster cho rằng quan niệm đó tạo ra sự đe dọa và khiêu khích đối với chính quyền, vì nó khiến người ta hiểu nhầm là ý muốn của mình cao hơn tất cả, thậm chí cao hơn cả chính quyền. Thế nhưng cuộc tranh cãi về tự do chưa hề chấm dứt do việc xuất bản cuốn từ điển của Webster.

Theo quan niệm của Noah Webster, âm đọc của các từ ngữ là chiến trường quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh độc lập về từ điển mà ông tiến hành. Trên cơ sở kinh nghiệm thực hành các phương pháp giảng dạy, ông phát minh ra một bộ quy tắc ghép vần mới. Quy tắc này đơn giản, khả thi, đã kết hợp hữu cơ ngôn ngữ với cách ghép vần viết chữ, nhờ đó dễ học. Phương pháp của Webster về sau trở thành quy tắc chung dùng để học tiếng Anh của người Mỹ.

Cuối cùng, năm 1828, khi đã 70 tuổi, Noah Webster xuất bản kết quả công việc của mình: bộ American Dictionary of the English Language –– Từ điển tiếng Anh của người Mỹ. Từ điển này có nhiều từ được người Mỹ dùng nhưng không có trong các từ điển của người Anh. Có lẽ vì thế mà sau này George Bernard Shaw, người Ireland chủ nhân Nobel Văn học 1925 nói: “Nước Mỹ và nước Anh là hai quốc gia bị ngăn cách nhau bởi cùng một ngôn ngữ.” (Winston Churchill cũng nói một câu tương tự).

Noah Webster để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người Mỹ, vì ông đã tin tưởng sâu sắc rằng ngôn ngữ có sức mạnh to lớn, muốn phát huy sức mạnh đó, mọi người dân cần nắm vững ngôn ngữ. Ngày nay ngôn ngữ được định nghĩa là công cụ của tư duy, con người còn tư duy phút nào thì còn dùng ngôn ngữ, còn sống trong ngôn ngữ. Ngôn ngữ được coi là linh hồn của dân tộc, nó tạo dựng nên tính cách của dân tộc, nó chủ động thúc đẩy hoặc cản trở sự phát triển của dân tộc, nó làm cho mỗi dân tộc có bộ mặt riêng của mình trong khu rừng dân tộc của toàn thế giới. Ngôn ngữ học được đánh giá rất cao, nó trở thành ngành khoa học độc lập ở giữa khoa học xã hội-nhân văn với khoa học tự nhiên.

Cách đây mấy trăm năm, Noah Webster đã sáng suốt nhận thức được những điều nói trên. Bộ Từ điển tiếng Anh của người Mỹ do ông biên soạn thật sự là phát súng cuối cùng trong cuộc chiến tranh của nước Mỹ nhằm giành độc lập, thoát khỏi ách thống trị trên mọi mặt của Anh Quốc. Sự nghiệp sáng ngời của Noah Webster còn là tấm gương soi chung cho các dân tộc thuộc địa (trong đó có dân tộc Việt Nam ta) đã và đang cần đấu tranh tiến tới hoàn toàn độc lập về ngôn ngữ với các nước lớn từng xâm lược, cai trị và đồng hoá dân tộc mình.

Bài viết của tác giả Nguyễn Hải Hoành dựa trên một số tài liệu tham khảo từ internet.