Ngày nay chúng ta cần loại khoa học xã hội-nhân văn nào?

Nguồn: Đồng Đắc Chí (Tong Dezhi), “今天,我们需要什么样的文科”, Global Times, 03/01/2025.

Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành

Các điều chỉnh đối với giáo dục khoa học xã hội-nhân văn vẫn đang diễn ra

Các tin tức gần đây cho thấy xu hướng điều chỉnh cơ cấu giáo dục đại học trên toàn thế giới là ngành khoa học xã hội-nhân văn (KHXHNV) đang suy giảm. Theo thống kê, tính đến ngày 31/7/2024, 19 trường đại học ở Trung Quốc đã đưa ra thông báo liên quan, hủy bỏ hoặc tạm dừng tuyển sinh trong tổng số 99 chuyên ngành. Đại học Tứ Xuyên đã hủy bỏ 31 chuyên ngành như quản lý tiện ích công cộng, thương mại điện tử, âm nhạc, phát thanh và truyền hình. Trước đó, Đại học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đã bãi bỏ các chuyên ngành như Tiếng Anh, Truyền thông học và Khảo cổ học. Đại học Công nghệ Đại Liên và Đại học Hàng không và Du hành vũ trụ Nam Kinh đã bãi bỏ Học bộ KHXHNV. Điều trùng hợp là vào tháng 10 năm ngoái, Đại học Harvard đã hủy bỏ hơn 30 khóa học mùa thu, chủ yếu là các khóa học về lịch sử và văn học. Một phương tiện truyền thông đưa tin về các sự kiện liên quan với chủ đề “Làn sóng sụp đổ của KHXHNV toàn cầu đang đến gần”, gây ra mối lo ngại rộng rãi trong xã hội.

Các mối quan tâm xã hội liên quan đến từ nhiều nguồn. Thứ nhất, việc hủy bỏ các chuyên ngành KHXHNV ở các trường cao đẳng, đại học vẫn được hiểu rộng rãi là sự coi thường tinh thần nhân văn và đả kích các giá trị đa văn hóa. Thứ hai là việc bãi bỏ các chuyên ngành KHXHNV sẽ dẫn đến việc thiết lập một môn học duy nhất trong các trường cao đẳng, đại học và làm mất đi tính đa dạng, sức sáng tạo đổi mới mà giáo dục cao đẳng lẽ ra phải có. Thứ ba, cho rằng sự điều chỉnh này đi ngược lại quan niệm củng cố sự tự tin về văn hóa, thậm chí còn tự làm suy yếu chính nó trong cạnh tranh văn hóa quốc tế. Thứ tư, tin rằng việc cắt giảm các chuyên ngành KHXHNV sẽ dẫn đến tình trạng thiếu hụt nhân tài ở một số lĩnh vực trong tương lai, mất cân bằng cơ cấu trong thị trường nhân lực và suy giảm chất lượng dịch vụ công.

Mặc dù “khoa học xã hội-nhân văn” không phải là một khái niệm khắt khe trong hệ thống phân loại môn khoa học nhưng nó lại rất phổ biến vì tính đơn giản và rõ ràng của nó. Trên thực tế, KHXHNV trong giáo dục cơ sở của Trung Quốc bao gồm ba phần: nhân văn, triết học và khoa học xã hội. Nói chung, nhân văn được chia thành văn học, lịch sử và triết học, trong khi khoa học xã hội chủ yếu bao gồm chính trị, kinh tế, pháp luật, giáo dục và nghệ thuật mà chúng ta thường nói đến, còn có xã hội học, dân tộc học, nhân chủng học và các ngành khác của nhóm xã hội học.

Những điều chỉnh đối với giáo dục KHXHNV vẫn đang diễn ra và không chỉ là vấn đề của năm 2024. Đầu tiên, số lượng tuyển sinh vào các ngành KHXHNV ngày càng giảm. Một báo cáo của Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn Anh Quốc cho thấy mặc dù cần điều tra thêm nhưng cuộc khảo sát hiện tại có thể chứng minh rằng số lượng tuyển sinh vào các ngành khoa học nhân văn, đặc biệt là ngôn ngữ học hiện đại, lịch sử, triết học, giáo dục đang giảm dần, và một số môn thần học và tôn giáo học đang đóng cửa hoặc thu hẹp quy mô. Thứ hai, đầu tư vào giáo dục KHXHNV cũng giảm tương đối. Ở một số trường cao đẳng và đại học, nguồn lực thường tập trung vào các chuyên ngành khoa học và kỹ thuật có triển vọng kiếm việc làm tốt hơn. Được thúc đẩy bởi các chính sách nhà nước và nhu cầu thị trường, xu hướng này đã trở nên rõ ràng hơn. Ngay cả khi một số hoạt động nghiên cứu và giáo dục KHXHNV chưa bị bãi bỏ thì sự hỗ trợ của chúng cũng đã giảm đi.

Không cần phải lo lắng về việc điều chỉnh các chuyên ngành KHXHNV và cũng không cần phải giải thích quá mức.

Việc các trường đại học điều chỉnh cơ cấu chuyên ngành để thích ứng với thị trường là điều dễ hiểu. Việc điều chỉnh ngành KHXHNV ở một số trường đại học trong nước là nỗ lực của các trường này nhằm đưa việc đào tạo nhân tài đến gần hơn với thị trường. Mặc dù chúng ta chưa thể đánh giá được hậu quả nhưng không cần phải lo lắng về nỗ lực này và không cần phải diễn giải nó quá mức. Trên thực tế, kiểu điều chỉnh này thường gặp rất nhiều áp lực. Khả năng thực hiện bước đi này của nhà trường cũng là kết quả của nhiều nỗ lực, thậm chí là sự làm cách mạng tự thân. Suy cho cùng, các trường đại học có quyền này và đây cũng là trách nhiệm. Cũng có một số điều chỉnh, không hẳn là cắt bỏ KHXHNV mà chỉ là điều chỉnh thôi. Ví dụ, Đại học Công nghệ Đại Liên đã bãi bỏ Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, nhưng đồng thời thành lập Học viện Nhân văn, Học viện Hành chính Công và Viện Nghiên cứu Giáo dục cao đẳng độc lập. Đây là sự nâng cấp của chuyên ngành KHXHNV vốn có.

Phân tích toàn diện quy luật tổng thể của giáo dục đại học trong những năm gần đây, chúng ta có thể thấy rằng việc điều chỉnh các chuyên ngành KHXHNV có bối cảnh lịch sử sâu sắc. Trong đó, sự phát triển nhanh chóng khoa học công nghệ nhân loại và sự tác động của trí tuệ nhân tạo là những nguyên nhân chính đến từ bên ngoài. Những vấn đề tồn tại trong bản thân các ngành khoa học xã hội nhân văn cũng là một trong những nguyên nhân. Tất nhiên, những điều chỉnh này còn do nhiều nguyên nhân khác gây ra, như sự phát triển kinh tế – xã hội, toàn cầu hóa.

Đầu tiên, sự mất kết nối của giáo dục KHXHNV. Giáo dục KHXHNV cũng cần tìm ra những lý do từ tự thân mình, chẳng hạn như quá xa rời thực tế, xa rời nhu cầu xã hội. Xét từ góc độ môi trường chuyên nghiệp, những chuyên ngành bản thân quá hẹp và quá chi tiết có thể phải đối mặt với nguy cơ bị bãi bỏ sau những thay đổi của xã hội. Xét từ góc độ kế hoạch đào tạo, nhiều môn học còn xa rời xã hội một cách nghiêm trọng và không thể đóng vai trò đào tạo nhân tài. Xét từ góc độ của những người thực hành giáo dục KHXHNV, nhiều giáo viên khoa học xã hội không có kinh nghiệm thực tế tương ứng. Nếu các giáo viên ngành khoa học xã hội và nhân văn không muốn rời khỏi vùng mình ưa thích và đáp ứng nhu cầu xã hội, thì những sinh viên mà họ đào tạo có thể sẽ xa rời thực tế và nghiên cứu của họ sẽ khó được xã hội công nhận.

Thứ hai, tác động của khoa học và công nghệ. Cơ cấu giáo dục cao đẳng toàn cầu đang có những thay đổi đáng kể, chủ yếu thể hiện ở sự suy thoái tương đối của giáo dục KHXHNV ở một số nước, đặc biệt là các nước phát triển, trong khi giáo dục STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học) đang có xu hướng phát triển nhanh chóng. Động lực đằng sau sự thay đổi này bao gồm nhiều yếu tố như toàn cầu hóa kinh tế, chuyển đổi nâng cấp cơ cấu công nghiệp, thay đổi nhu cầu thị trường lao động và sự phát triển của các khái niệm giáo dục công. Do đó, hệ thống giáo dục đại học ở nhiều quốc gia đã nghiêng về đầu tư vốn và phân bổ nguồn lực giáo dục cho các lĩnh vực này nhằm đào tạo thêm nhiều chuyên gia đáp ứng nhu cầu thị trường.

Thứ ba, tác động của trí tuệ nhân tạo. Trí tuệ nhân tạo do ChatGPT đại diện trước tiên sẽ tác động đến ngôn ngữ và giáo dục, tiếp theo là các ngành nghệ thuật như hội họa, hoạt hình, điện ảnh và truyền hình. Lấy dịch thuật làm ví dụ. Với sự hỗ trợ của công nghệ dữ liệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo, khả năng của các nền tảng dịch thuật hiện nay đã vượt qua hầu hết người thường, thậm chí đang vượt qua các phiên dịch chuyên nghiệp. Điều này khiến nghề dịch thuật có nguy cơ bị thay thế, triển vọng của nó không còn tốt đẹp nữa. Nhưng trên thực tế, với sự tiến bộ của nghiên cứu khoa học dựa trên AI (AI for Science), sự thay đổi này sẽ không chỉ tác động đến các ngành khoa học xã hội và nhân văn mà còn đến cả các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật.

Khoa học xã hội và nhân văn ngày nay phải thay đổi 

Mục đích và sứ mệnh ban đầu của KHXHNV là mang lại lợi ích cho chính nhân loại và xã hội loài người. Theo nghĩa này, con người càng phát triển thì càng cần đến KHXHNV. Đồng thời, chúng ta cũng phải thấy rằng sự phát triển của nhân loại đòi hỏi KHXHNV đi theo sự phát triển của nhân loại. Vì vậy, điều ngày nay chúng ta cần là những ngành KHXHNV có khả năng đón nhận khoa học công nghệ hiện đại và không ngừng đổi mới thông qua nghiên cứu liên ngành. Ngày nay, điều chúng ta cần là các ngành KHXHNV quan tâm đến nhân loại, xã hội và mang lại lợi ích cho nhân loại thông qua nỗ lực của chính họ. Ngày nay, điều chúng ta cần là khoa học xã hội và nhân văn có thể sử dụng Internet, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo để trở nên thông minh hơn nhờ trí tuệ nhân tạo. Vì vậy, các ngành KHXHNV phải thay đổi.

Đầu tiên, giáo dục KHXHNV phải được kết hợp với thực tiễn Trung Quốc. Khoa học và công nghệ càng phát triển, xã hội loài người càng trở nên phức tạp và mỗi cá nhân con người càng chú ý đến thế giới tinh thần của mình thì càng cần được giáo dục về KHXHNV, càng cần nhiều nhân tài trong KHXHNV. Giáo dục KHXHNV phải căn cứ theo nhu cầu xã hội mà điều chỉnh linh hoạt các chuyên ngành liên quan, nhất là những ngành trong chương trình đào tạo không phù hợp với phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, các nhà nghiên cứu KHXHNV cũng phải tự suy ngẫm, đi sâu vào thực tiễn xã hội với thái độ tích cực hơn, viết luận văn về quê hương tổ quốc: Một mặt phải điều chỉnh phương hướng nghiên cứu khoa học để phục vụ tốt hơn cho sự phát triển kinh tế và xã hội. Mặt khác, phải đẩy nhanh việc xây dựng hệ thống tri thức tự chủ của Trung Quốc và tăng cường khả năng tự đào tạo nhân tài.

Thứ hai, giáo dục KHXHNV phải nắm bắt khoa học công nghệ hiện đại. Những thách thức mà khoa học công nghệ hiện đại đặt ra cho giáo dục khai phóng là có thật, nhưng những cơ hội mà chúng mang lại cũng là chưa từng có. Giáo dục KHXHNV nên nắm bắt cơ hội, ứng phó với thách thức và kết hợp nhiều hơn với khoa học và kỹ thuật để hình thành môn học liên ngành và hệ thống chuyên môn. Đồng thời, phải nắm bắt cơ hội do khoa học và công nghệ hiện đại mang lại, sử dụng khoa học và công nghệ hiện đại để đổi mới giáo dục, đào tạo nhân tài đa ngành. Bằng cách tích hợp công nghệ vào giáo dục KHXHNV, chúng ta có thể đào tạo những học sinh có nhiều mối quan tâm nhân văn, nhiều định hướng xã hội và tinh thần đổi mới hơn, tạo nền tảng vững chắc để trong tương lai họ có được chỗ đứng trong một xã hội đang phát triển nhanh chóng.

Thứ ba, giáo dục KHXHNV phải hướng tới thời đại kỹ thuật số. Những thách thức của trí tuệ nhân tạo đang gia tăng với tốc độ kỷ hà học, không ngừng làm mới sự hiểu biết của con người về bản thân và về xã hội, đồng thời tạo ra những hiệu ứng cách mạng mang tính lật đổ. Giáo dục KHXHNV phải chấp nhận thách thức, nắm bắt cơ hội và sử dụng công nghệ số để thúc đẩy sự tiến bộ của giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Ví dụ, bằng cách sử dụng các mô hình ngôn ngữ lớn, KHXHNV có thể dễ dàng đi đầu trong nghiên cứu hơn bao giờ hết. Một ví dụ khác, sử dụng mô hình ngôn ngữ lớn, giáo dục KHXHNV sẽ hiệu quả và hiệu quả tốt hơn, điều đó tất yếu sẽ nâng cao chất lượng giáo dục KHXHNV.

Tóm lại, KHXHNV ngày nay phải có sự thay đổi. Đối mặt với thời đại kỹ thuật số, nắm bắt khoa học công nghệ hiện đại, tạo ra các ngành khoa học xã hội và nhân văn sáng tạo đổi mới hơn, thông minh hơn để mang lại lợi ích cho chính nhân loại và xã hội loài người.

Tác giả Đồng Đắc Chí là Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản trị nhà nước tại Đại học Sư phạm Thiên Tân, Trung Quốc.