Giới hạn của một thỏa thuận Mỹ-Trung

Nguồn: Brendan Kelly và Michael Hirson, “The Limits of a U.S.-China Deal,” Foreign Affairs, 07/03/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Ngay cả khi Trump muốn có một thỏa thuận lớn với Trung Quốc, thì nền kinh tế của hai bên vẫn sẽ tiếp tục xa cách nhau.

Trong những tuần đầu tiên sau khi trở lại Phòng Bầu dục, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã áp dụng cách tiếp cận đối nghịch nhau trong các giao dịch của mình với Trung Quốc, khiến thị trường tài chính Mỹ, các công ty đa quốc gia và các nhà lãnh đạo Trung Quốc rơi vào tình trạng lấp lửng. Trump đã áp dụng mức tăng thuế quan 10% đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và đe dọa sẽ tăng thuế thêm nữa. Những động thái này sẽ làm tăng mức thuế quan trung bình của Mỹ đối với hàng hóa Trung Quốc thêm 20 điểm phần trăm chỉ trong vòng hai tháng, cao hơn nhiều so với mức tăng 12% trong cuộc thương chiến Mỹ-Trung hồi nhiệm kỳ đầu tiên của ông. Tuy nhiên, Trump cũng đã cố tình ca ngợi mối quan hệ bền chặt của mình với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình; ban hành một sắc lệnh hành pháp cực kỳ bất thường để cho phép công ty ByteDance do Trung Quốc sở hữu tạm hoãn việc thực thi một đạo luật sẽ cấm ứng dụng phổ biến của công ty này, TikTok; và liên tục nhắc đến một thỏa thuận thương mại mới với Bắc Kinh.

Đầu năm 2020, trong nhiệm kỳ đầu tiên của Trump, Trung Quốc và Mỹ đã đạt được cái gọi là thỏa thuận thương mại Giai đoạn Một, trong đó yêu cầu Trung Quốc phải tăng đáng kể lượng hàng nhập khẩu từ Mỹ. Thỏa thuận này cuối cùng lại là một thất bại, một phần là do sự gián đoạn mà đại dịch gây ra cho nền kinh tế Trung Quốc và thương mại toàn cầu – cũng như sự tập trung cao độ của Tổng thống Joe Biden vào “cắt giảm rủi ro” – khiến cả hai bên âm thầm từ bỏ những mục tiêu vốn đã không thực tế. Tuy nhiên, tháng đầu tiên trong nhiệm kỳ thứ hai của Trump đã làm dấy lên suy đoán rằng ông đang tích cực tìm kiếm một thỏa thuận thương mại mới với Trung Quốc, hoặc thậm chí là xem xét lại quan hệ đối đầu của Washington với Bắc Kinh.

Đối với Trump, việc chạy song song các cách tiếp cận hiện tại – khám phá khả năng hợp tác, trong khi vẫn tăng thuế quan – không nhất thiết là khó hiểu. Thuế quan có thể tạo ra đòn bẩy để đạt được những lời đề nghị hấp dẫn hơn từ Bắc Kinh. Về phần mình, Tập cũng đã gửi cho Trump những tín hiệu tương đối nồng nhiệt, bao gồm cả những lời đề nghị không chính thức về việc mua thêm hàng hóa của Mỹ. Việc Trung Quốc kiềm chế không trả đũa toàn diện đối với mức thuế quan của Trump – chỉ tăng thuế quan của Trung Quốc đối với một số lượng hạn chế hàng hóa của Mỹ – đã giúp bảo tồn một con đường dẫn đến một thỏa thuận tiềm năng.

Về mặt lý thuyết, một thỏa thuận thương mại lớn sẽ đem lại lợi ích cho cả Mỹ và Trung Quốc. Nhưng sự thật là nỗ lực của cả hai nước nhằm giảm sự phụ thuộc lẫn nhau về thương mại đã xuất hiện từ rất lâu trước đại dịch năm 2020, và là nguyên nhân đáng kể cho sự thất bại của thỏa thuận Giai đoạn Một. Chừng nào cam kết giảm phụ thuộc vẫn còn tồn tại, thì bất kỳ thỏa thuận thương mại mới nào được đưa ra có lẽ chỉ là hình thức. Và sự đồng thuận chính trị mạnh mẽ ủng hộ việc cắt giảm rủi ro ở cả Trung Quốc và Mỹ cho thấy cam kết đó vẫn sẽ được duy trì, làm thu hẹp dần các cơ hội thương mại giữa hai bên.

XA CÁCH

Dù cắt giảm rủi ro thường được mô tả là mục tiêu của phương Tây, nhưng Trung Quốc thật ra đã cố tình theo đuổi chiến lược này suốt hơn một thập kỷ. Trọng tâm chính của sáng kiến Made in China 2025, được Bắc Kinh khởi xướng vào năm 2015, là giảm sự phụ thuộc của Trung Quốc vào các sản phẩm nước ngoài; trên thực tế, sáng kiến này tập trung vào việc hạn chế sự phụ thuộc của nền kinh tế Trung Quốc vào các công nghệ và đầu vào của Mỹ trong các lĩnh vực như chất bán dẫn, công nghệ sinh học, và kỹ thuật hàng không vũ trụ. Kể từ cuộc thương chiến Mỹ-Trung năm 2018-2019, Trung Quốc cũng đã chuyển một phần đáng kể lượng nông sản nhập khẩu từ Mỹ sang Brazil, để hạn chế tình trạng dễ bị tổn thương trước các hạn chế thương mại của Mỹ và đền đáp cho một quốc gia thân thiện hơn.

Một số nỗ lực của Bắc Kinh nhằm giảm sự phụ thuộc vào đầu vào của Mỹ có lẽ là phản ứng trước việc Mỹ triển khai các biện pháp kiểm soát xuất khẩu chặt chẽ hơn. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, Trump đã thắt chặt kiểm soát đối với xuất khẩu công nghệ của Mỹ, đáng chú ý nhất là bằng cách cắt đứt quyền tiếp cận công nghệ bán dẫn của Mỹ của gã khổng lồ viễn thông Trung Quốc Huawei. Bắc Kinh xem động thái đó – vốn đã cản trở nỗ lực của Huawei nhằm thống trị mạng di động 5G trên toàn thế giới – là gây tổn hại nhiều hơn cho tham vọng địa chính trị của Trung Quốc so với việc Trump tăng mạnh thuế quan đối với hàng hóa Trung Quốc. Giới lãnh đạo Trung Quốc đã phản ứng với đòn giáng này chủ yếu bằng cách củng cố quyết tâm phát triển các giải pháp thay thế trong nước cho các chất bán dẫn của Mỹ, cũng như cho các công nghệ “nút thắt cổ chai” khác.

Thỏa thuận Giai đoạn Một đã tạo cho hai bên một lối thoát khỏi tình trạng leo thang thuế quan. Nhưng Bắc Kinh và Washington vẫn kiên trì với nỗ lực phân tách. Đa dạng hóa chuỗi cung ứng của Mỹ là một phần cốt lõi trong chiến lược của Biden đối với Trung Quốc, và nó chính là một trong những đường hướng nhất quán nhất giữa chính quyền Trump và Biden. Hai đảng Cộng hòa và Dân chủ có thể sử dụng các thuật ngữ khác nhau – chính quyền Biden tập trung vào “cắt giảm rủi ro,” trong khi Đại diện Thương mại Mỹ sắp nhậm chức Jamieson Greer nói về “phân tách chiến lược” – nhưng mục đích của họ về cơ bản là giống nhau.

Cả Trung Quốc và Mỹ đều đã tăng cường sử dụng các biện pháp kiểm soát xuất khẩu sau khi Trump rời nhiệm sở vào đầu năm 2021. Vào tháng 10/2022, chính quyền Biden đã áp đặt một loạt các hạn chế toàn diện đối với việc xuất khẩu chất bán dẫn tiên tiến và công nghệ AI sang Trung Quốc, tăng cường các biện pháp kiểm soát này hơn nữa vào năm 2023 và một lần nữa vào năm 2024. Từ giữa năm 2023, Bắc Kinh cũng bắt đầu phản ứng mạnh mẽ hơn bằng các biện pháp đối trọng của riêng mình, tận dụng sự thống trị của nước này đối với các khoáng sản quan trọng. Sau khi củng cố hiểu biết về các điểm nghẽn chủ chốt, vào tháng 12 năm ngoái, Trung Quốc đã chính thức cấm mọi hoạt động xuất khẩu antimony, gallium, và germanium cho người mua ở Mỹ – đây vốn là các khoáng sản quan trọng đối với chất bán dẫn, pin mặt trời, và nhiều ứng dụng quốc phòng.

Tình trạng phân tách này đã trở nên trầm trọng hơn do quan ngại ngày càng tăng về sự phát tán công nghệ AI và dữ liệu nhạy cảm thông qua các sản phẩm thương mại. Ngay trước khi Biden rời nhiệm sở, vào tháng 1, chính quyền của ông đã sử dụng một sắc lệnh hành pháp thời Trump để hạn chế nhập khẩu xe hơi và phụ tùng xe hơi từ Trung Quốc có chứa một số công nghệ thu thập dữ liệu hoặc kết nối với mạng liên lạc, đồng thời đề xuất một dự thảo quy định có trọng tâm tương tự dành cho máy bay không người lái và các thành phần của máy bay không người lái. Sắc lệnh hành pháp Chính sách Thương mại Nước Mỹ Trên hết của Trump, được ông ký trong ngày nhậm chức tổng thống vào tháng 1, cũng kêu gọi bộ trưởng thương mại xem xét mở rộng các biện pháp kiểm soát như vậy sang các sản phẩm khác.

Trong khi đó, Bắc Kinh từ lâu đã lo lắng về khả năng người Mỹ tiếp cận dữ liệu của họ. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã ban hành một số luật và quy định nghiêm ngặt nhất thế giới nhằm hạn chế việc chia sẻ dữ liệu xuyên biên giới. Các công ty công nghệ và công ty liên quan đến công nghệ hàng đầu của Mỹ, chẳng hạn như Apple và Tesla, đang phải đối mặt với môi trường ngày càng nhiều thách thức khi vận hành các hệ thống do AI hỗ trợ tại Trung Quốc. Một động thái đối đầu, ăn miếng trả miếng tương tự gần đây đã lan sang công nghệ sinh học, một lĩnh vực từng được xem là chín muồi cho sự hợp tác giữa Mỹ và Trung Quốc. Vào ngày 15/01, Biden đã triển khai các biện pháp kiểm soát xuất khẩu mới đối với các thiết bị phòng thí nghiệm công nghệ sinh học của Mỹ, trong đó chủ yếu nhắm đến Trung Quốc; sang tháng 2, Trung Quốc đã trừng phạt công ty thiết bị công nghệ sinh học hàng đầu của Mỹ, Illumina, sau khi công ty này ngừng bán các sản phẩm cao cấp nhất của mình cho các công ty Trung Quốc để tuân thủ các biện pháp kiểm soát xuất khẩu của Mỹ. Các nhà lập pháp Mỹ nhiều khả năng sẽ tăng cường nỗ lực thông qua Đạo luật An toàn Sinh học, nhằm mục đích giảm sự phụ thuộc của các công ty công nghệ sinh học Mỹ vào các công ty Trung Quốc về thành phần dược phẩm, giải trình tự gen, và thử nghiệm lâm sàng.

BÀI KIỂM TRA THỰC TẾ

Một thỏa thuận thương mại mới giữa Trump và Tập sẽ phá vỡ kịch bản có thể dự đoán này. Để đổi lấy việc cắt giảm thuế quan và các nhượng bộ khác về kiểm soát xuất khẩu từ Mỹ, Bắc Kinh gần như chắc chắn sẽ phải cam kết lại – hoặc thậm chí cam kết nhiều hơn – các mục tiêu của thỏa thuận Giai đoạn Một về việc mua hàng hóa từ Mỹ. Gần đây, Trump cũng đã gợi ý rằng ông có thể tìm cách khuyến khích các công ty Trung Quốc xây dựng nhà máy tại Mỹ.

Về lý thuyết, việc thúc đẩy Trung Quốc đầu tư nhiều hơn vào Mỹ sẽ phù hợp với mục tiêu của Trump là thúc đẩy ngành sản xuất-chế tạo của Mỹ. Các nhà cung cấp xe hơi Trung Quốc dường như rất muốn đầu tư vào sản xuất tại Mỹ. Và Bắc Kinh cũng biết rõ rằng khoản đầu tư của Nhật Bản vào nền kinh tế Mỹ đã giúp xoa dịu căng thẳng thương mại giữa hai bên hồi thập niên 1980. Nếu các công ty Trung Quốc phải đối mặt với mối đe dọa thực sự là mất quyền tiếp cận thị trường Mỹ, thì việc nội địa hóa một số hoạt động sản xuất tại Mỹ là lựa chọn khá hấp dẫn.

Tuy nhiên, yếu tố chính trị vốn đã phức tạp của đầu tư Trung Quốc vào Mỹ đặt ra những trở ngại lớn trên con đường đầu tư ở quy mô như của Nhật Bản. Vào ngày 21/02, Trump đã ký một bản ghi nhớ cáo buộc các nhà đầu tư được chính phủ Trung Quốc hậu thuẫn nhắm vào “những viên ngọc quý” của nền kinh tế Mỹ và chỉ đạo Bộ Tài chính hạn chế chặt chẽ hơn các khoản đầu tư của Trung Quốc, cũng như các khoản đầu tư của Mỹ vào Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo chính trị Mỹ đã lên án các khoản đầu tư của Trung Quốc suốt nhiều năm, khiến một số chính quyền địa phương và cử tri Mỹ, đặc biệt là ở các tiểu bang ủng hộ Đảng Cộng hòa, phản đối các dự án lớn của Trung Quốc: chẳng hạn, vào năm 2023, cử tri ở vùng nông thôn Michigan đã thay thế các quan chức địa phương dám ủng hộ khoản đầu tư 2,36 tỷ đô la của một nhà sản xuất pin Trung Quốc, và Trump đã đích thân chỉ trích khoản đầu tư này trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2024 của mình. Nếu Tổng thống thực sự muốn thu hút các khoản đầu tư đáng kể của Trung Quốc vào ngành chế tạo, ông sẽ phải giải thích lý do tại sao những khoản đầu tư này không gây ra mối đe dọa – và tại sao các công ty Trung Quốc có thể an tâm rằng người Mỹ sẽ chào đón họ.

Đảm bảo Trung Quốc sẽ cam kết mua hàng hóa của Mỹ – cốt lõi của thỏa thuận Giai đoạn Một – là việc làm khá trực diện, nhưng vẫn đặt ra thách thức. Ví dụ, nhu cầu về khí thiên nhiên hóa lỏng của Trung Quốc, mà Mỹ có nguồn cung dồi dào, đang tăng vọt; xuất khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng của Mỹ sang Trung Quốc cũng dự kiến sẽ tăng nhanh trong những năm tới dựa trên các hợp đồng mà chính quyền Trump trước đã ký.

Một thỏa thuận lớn về máy bay thương mại có thể được công bố. Hầu hết các hãng hàng không Trung Quốc đều sử dụng máy bay Boeing, nhưng Trung Quốc đã không thực hiện đơn đặt hàng Boeing mới nào kể từ năm 2017, cùng năm mà nước này ra mắt máy bay chở khách đầu tiên được thiết kế và sản xuất trong nước, Comac C919. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn có lượng cầu lớn chưa được đáp ứng về máy bay trong hai thập kỷ tới – một lượng cầu mà họ phần nào sẽ muốn Boeing đáp ứng thay vì trao cho đối thủ cạnh tranh của Boeing là Airbus ở châu Âu, một thị trường tương đối bị giới hạn. Trọng tâm tham vọng hơn của thỏa thuận Mỹ-Trung có thể là các sản phẩm y tế: Xuất khẩu y tế của Mỹ sang Trung Quốc đã tăng trưởng trong vài năm qua, đạt gần 15 tỷ đô la vào năm 2023.

Tuy nhiên, việc thực sự triển khai các điều khoản của một thỏa thuận đầy tham vọng sẽ đòi hỏi cam kết chính trị lớn từ cả hai thủ đô, để vượt qua logic của việc cắt giảm rủi ro. Về phần mình, Bắc Kinh sẽ cần phải trực tiếp ra lệnh cho các doanh nghiệp nhà nước cũng như các công ty tư nhân Trung Quốc mua hàng từ Mỹ, thay vì từ các đối thủ cạnh tranh trong nước hoặc nước ngoài khác, đảo ngược quan điểm đã có từ lâu của Tập về tự lực cánh sinh. Suy cho cùng, việc Bắc Kinh tiếp tục dựa vào mô hình tăng trưởng ưu tiên đầu tư và xuất khẩu thay vì tiêu dùng trong nước sẽ kìm hãm sự nhiệt tình của họ đối với việc nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn từ Mỹ.

Trung Quốc cũng có thể có ít không gian và thiện chí hơn so với năm 2019 để thực hiện các giao dịch mua hàng lớn với Mỹ, vì điều này sẽ làm giảm lượng hàng nhập khẩu từ các đối tác thương mại quan trọng khác. Thặng dư thương mại khổng lồ của Trung Quốc – gần đạt mức kỷ lục 1 nghìn tỷ đô la vào năm 2024 – đang tạo ra căng thẳng với các nước châu Âu cũng như Ấn Độ, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, và các nước láng giềng châu Á của chính họ. Nhờ xuất khẩu hàng hóa, Brazil là một trong số ít quốc gia duy trì được thặng dư thương mại đáng kể với Trung Quốc, nhưng ngay cả nước này cũng lo ngại rằng hàng hóa Trung Quốc đang đe dọa nghiêm trọng đến cơ sở công nghiệp của họ. Nếu Trung Quốc quay lại mua một lượng lớn nông sản từ Mỹ, thì quan hệ của nước này với Brazil có thể trở nên căng thẳng hơn.

Việc duy trì cam kết đối với một thỏa thuận thương mại sẽ trở nên đặc biệt khó nếu căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Mỹ trong lĩnh vực chính sách đối ngoại. Việc Trump bổ nhiệm những nhân vật theo đường lối cứng rắn với Trung Quốc như Cố vấn An ninh Quốc gia Mike Waltz và Ngoại trưởng Marco Rubio vào đội ngũ đối ngoại của mình – cũng như tình cảm chống Trung Quốc hiện đang thống trị Quốc hội Mỹ – có nghĩa là Mỹ gần như chắc chắn sẽ theo đuổi các hành động chiến lược mà Trung Quốc xem là khiêu khích, chẳng hạn như nhắc lại hoặc mở rộng sự hỗ trợ ngoại giao và quân sự cho Đài Loan. Những hành động như vậy sẽ gây áp lực buộc Bắc Kinh phải thực hiện các động thái của riêng mình để cho người dân thấy rằng họ sẵn sàng chống lại Trump, ví dụ bằng cách tẩy chay không chính thức một số hàng hóa hoặc thương hiệu của Mỹ.

ĐIỂM MẤU CHỐT

Ngoài việc ký kết thỏa thuận thương mại Giai đoạn Hai, một số nhà phân tích thị trường và những người được Trump bổ nhiệm đã đề xuất rằng: cái gọi là thỏa thuận Mar-a-Lago có thể giải quyết chính sách tiền tệ và mất cân bằng kinh tế vĩ mô rộng hơn. Các khuôn mẫu cho một thỏa thuận như vậy đã có sẵn dưới dạng Thỏa ước Smithsonian và Thỏa ước Plaza, cũng như các thỏa thuận tiền tệ đa quốc gia do Tổng thống Richard Nixon và Ronald Reagan thực hiện. Trong cả hai trường hợp, Mỹ đã dùng biện pháp đe dọa áp thuế để buộc các đối tác thương mại – các nước G-10 vào năm 1971, sau đó là Pháp, Nhật, Anh, và Tây Đức vào năm 1985 – phải nâng giá trị đồng tiền của họ so với đồng đô la Mỹ, tạm thời giúp giảm thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ.

Trump sẵn sàng sử dụng mối đe dọa thuế quan hơn bất kỳ người tiền nhiệm nào của ông. Và một số cố vấn mới của ông – bao gồm Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent và người được ông đề cử làm chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế Stephen Miran – đã đề xuất các kỹ thuật sáng tạo để sử dụng thuế quan nhằm tái cân bằng quan hệ thương mại với Trung Quốc, chẳng hạn như tăng thuế hàng tháng đối với hàng hóa Trung Quốc cho đến khi Bắc Kinh chịu mở cửa thị trường hơn nữa cho Mỹ.

Tuy nhiên, những thực tế địa chính trị và kinh tế vĩ mô hiện nay sẽ khiến việc đạt được một thỏa thuận mới có hiệu quả tương tự như Thỏa ước Smithsonian và Plaza trở nên vô cùng khó khăn. Những thỏa thuận trước đây đã được thực hiện với các đồng minh của Mỹ, những người phụ thuộc vào chiếc ô an ninh của Mỹ, chứ không phải một đối thủ mạnh như Trung Quốc. Nhiều nhà hoạch định chính sách ở Bắc Kinh đã xem Thỏa ước Plaza là một cái bẫy dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1990 của Nhật Bản và nhiều thập kỷ trì trệ kinh tế sau đó. Và dù Thỏa ước Smithsonian và Plaza đã thành công trong việc làm suy yếu tạm thời đồng đô la, nhưng chúng không dẫn đến sự hợp tác lâu dài hơn về chính sách kinh tế vĩ mô.

Cũng rất khó để Trump thuyết phục Tập thực hiện những thay đổi chính sách lớn nhằm làm giảm đáng kể thặng dư thương mại của Trung Quốc. Những điều chỉnh chính sách như vậy không chỉ thay đổi hoàn toàn nền kinh tế chính trị của Trung Quốc, mà còn làm suy yếu chiến lược địa chính trị của Bắc Kinh, vốn ngày càng phụ thuộc vào việc duy trì vị thế “nhà xuất khẩu của thế giới” của Trung Quốc để kiềm chế bá quyền của Mỹ. Như ông đã làm với thỏa thuận Giai đoạn Một, Tập có thể đồng ý không để đồng nhân dân tệ mất giá thêm nữa, dù hành động này chỉ làm chậm tốc độ tăng trưởng thặng dư thương mại của Trung Quốc mà thôi.

CHIA RẼ VÀ ĐAU KHỔ

Việc Trump ngày càng dựa dẫm vào lãnh đạo của các công ty công nghệ Mỹ để đưa ra quyết định chính trị là một yếu tố khó lường. Tesla của Elon Musk có sự tiếp xúc đáng kể với Trung Quốc: Trung Quốc chiếm hơn một phần ba doanh số bán xe của công ty này và là chìa khóa để họ triển khai khả năng lái xe tự động. Musk vừa có ảnh hưởng với Trump, vừa có động lực mạnh mẽ để duy trì quyền tiếp cận thị trường Trung Quốc, và ông có thể ra quyết định theo hướng thực dụng. Nhưng vì Tesla cũng bị đe dọa bởi sự phát triển của xe điện Trung Quốc, nên Musk khó có thể ủng hộ việc nới lỏng thuế quan đối với các đối thủ cạnh tranh chính từ Trung Quốc.

Ngay cả khi các nhà lãnh đạo công nghệ thuyết phục Trump ưu tiên giành quyền tiếp cận thị trường cho các sản phẩm của họ tại Trung Quốc, thì mô hình cắt giảm rủi ro giữa Mỹ và Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ tiếp tục được duy trì trong nhiệm kỳ thứ hai của Trump. Các ưu tiên về an ninh, kinh tế, và ý thức hệ cơ bản đã thúc đẩy Mỹ và Trung Quốc giảm sự phụ thuộc vào nhau trong một thập kỷ vẫn còn nguyên vẹn. Không có dấu hiệu nào cho thấy Tập sẽ thay đổi trọng tâm cơ bản của mình là khả năng tự cung tự cấp về công nghệ, và sắc lệnh hành pháp ngày 20/01 nhằm vạch ra mục tiêu cân bằng thương mại của chính quyền Trump cũng kêu gọi Bộ Thương mại và Bộ Tài chính đánh giá liệu Mỹ có nên mở rộng kiểm soát xuất khẩu và hạn chế đầu tư ra nước ngoài hay không. Các quan chức chủ chốt trong chính quyền Trump và Quốc hội Mỹ nhiều khả năng sẽ thúc đẩy việc phân tách công nghệ hơn nữa.

Nhưng trên thực tế, cả Trung Quốc và Mỹ đều nên đánh giá cẩn trọng xem việc cắt giảm rủi ro đã đi đủ xa hay chưa, bởi cách tiếp cận này đi kèm với cái giá kinh tế đáng kể cho cả hai bên. Nó có thể làm trầm trọng thêm tình trạng lạm phát ở Mỹ (bằng cách hạn chế các công ty Mỹ tiếp cận lĩnh vực chế tạo hoạt động hiệu quả của Trung Quốc) và giảm phát ở Trung Quốc (bằng cách giảm cầu ở nước ngoài đối với các sản phẩm của Trung Quốc). Giảm nhập khẩu trực tiếp từ Trung Quốc cũng không thể làm giảm thâm hụt thương mại chung của Mỹ nếu nó không đi kèm các chính sách kinh tế vĩ mô như củng cố tài khóa. Nếu Mỹ không phối hợp chặt chẽ hơn với các đồng minh G-7 và các nhà sản xuất hàng hóa lớn khác để cùng nhau thúc đẩy sản xuất bên ngoài Trung Quốc, thì chính Mỹ cũng sẽ gặp nhiều khó khăn khi đảo ngược sự phụ thuộc có ý nghĩa của họ vào Trung Quốc trong các sản phẩm quan trọng đối với an ninh quốc gia, chẳng hạn như các khoáng sản quan trọng.

Và bất chấp thặng dư thương mại cao kỷ lục, chừng nào Bắc Kinh còn ám ảnh với việc cắt giảm rủi ro cho phía cung của nền kinh tế và không chú ý đủ đến việc thúc đẩy cầu trong nước, thì họ chỉ có thể đạt được tiến triển hạn chế trong việc giảm thiểu tình trạng dễ bị tổn thương trước hàng rào thuế quan cũng như các lệnh trừng phạt và kiểm soát xuất khẩu của Mỹ. Tóm lại là, dù Tập hay Trump nói họ muốn đạt thỏa thuận nhiều đến đâu, thì việc thay đổi đáng kể chiến lược cắt giảm rủi ro cũng khó lòng diễn ra trong vòng bốn năm tới.

Brendan Kelly là Nghiên cứu viên Không thường trú về Kinh tế và Công nghệ Trung Quốc tại Trung tâm Phân tích Trung Quốc của Viện Chính sách Xã hội Châu Á. Ông từng là Giám đốc về Kinh tế Trung Quốc tại Hội đồng An ninh Quốc gia từ năm 2023 đến năm 2024, và trước đây từng là chuyên gia Trung Quốc tại Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York và Bộ Tài chính Mỹ.

Michael Hirson là Giám đốc Điều hành Cấp cao tại 22V Research và Nghiên cứu viên Danh dự Không thường trú về Kinh tế và Công nghệ Trung Quốc tại Trung tâm Phân tích Trung Quốc của Viện Chính sách Xã hội Châu Á. Từ năm 2014 đến năm 2016, ông là tùy viên tài chính của Bộ Tài chính Mỹ tại Trung Quốc.