Các cường quốc phân chia ‘vùng ảnh hưởng’ không giúp ích cho hòa bình thế giới

Nguồn: Sarang Shidore, “Spheres of Influence Are Not the Answer,” Foreign Policy, 28/05/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Ngay cả khi các cường quốc có thể tạo nên một thế giới kết nối với nhau, Washington vẫn có thể không đạt được kết quả họ muốn.

Cuộc đụng độ tại Phòng Bầu dục giữa Tổng thống Mỹ Donald Trump và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky trước toàn thể giới truyền thông, tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio rằng Ukraine “không phải là cuộc chiến của chúng tôi,” và sự chấp thuận của Tổng thống Nga Vladimir Putin đối với bất kỳ cuộc sáp nhập Greenland nào của Mỹ đã làm dấy lên đồn đoán về việc liệu Mỹ có đang từ bỏ mô hình “đồng minh và đối tác” đã tồn tại hàng thập kỷ, để chuyển sang áp dụng cách tiếp cận “các vùng ảnh hưởng” trong đại chiến lược của mình hay không. Những tín hiệu này đã được củng cố bởi bài phát biểu gần đây của Trump tại Ả Rập Saudi, trong đó Tổng thống Mỹ bác bỏ những gì ông xem là xu hướng của các đời tổng thống trước – “nhìn sâu vào tâm can các nhà lãnh đạo nước ngoài và dùng chính sách của Mỹ để phán xét những tội lỗi của họ.”

Lời hứa lớn lao của lý thuyết các vùng ảnh hưởng (spheres of influence) là việc giảm thiểu, nếu không muốn nói là loại bỏ hoàn toàn, nguy cơ xảy ra chiến tranh thế giới. Sau khi các cường quốc phân chia thế giới, giới hạn các lợi ích đã nêu của họ, và tôn trọng sân sau của nhau, họ sẽ có ít tranh chấp hơn và ít lý do hơn để tham gia vào xung đột. Chí ít thì đó là những gì người ta vẫn nói.

Lời hứa này không nên bị xem nhẹ. Trong thời đại của vũ khí hạt nhân và siêu thanh, chiến tranh giữa các siêu cường cần được xem là một trong những mối đe dọa sống còn đối với nhân loại. Chúng ta đang sống trong một thế giới nguy hiểm hơn nhiều so với các giai đoạn sau của Chiến tranh Lạnh. Trong vài năm trở lại đây, nguy cơ xung đột trực tiếp giữa Nga và NATO ở Ukraine ngày càng gia tăng, cùng với đó là sự xấu đi trong quan hệ an ninh với Trung Quốc về vấn đề Đài Loan và Biển Đông, chưa kể đến căng thẳng cường quốc gia tăng ở Sahel và Trung Đông. Kiểm soát vũ khí đang bị đe dọa, và sự suy giảm của thế đơn cực chỉ khiến Washington thêm lo lắng. Nếu các vùng ảnh hưởng làm giảm đáng kể khả năng xảy ra chiến tranh thế giới, thì đó chỉ có thể là điều tốt.

Nhưng xét cho cùng, các vùng ảnh hưởng không thể là giải pháp trong thời đại của chúng ta. Washington đang xác định vùng ảnh hưởng của riêng mình  một cách quá rộng và sẽ không được Trung Quốc chấp nhận; trong một thế giới kết nối chặt chẽ, việc phân chia địa lý là cực kỳ khó khăn; và các nước phương Nam toàn cầu đã không còn như trước và hoàn toàn có thể chống lại một cấu trúc như vậy theo những cách trực tiếp và gián tiếp.

Một bức tranh minh họa năm 1899 mô tả Chú Sam đứng trên bản đồ Trung Quốc, xung quanh là các nhà cai trị nước ngoài, lần lượt là Đức, Ý, Anh, Áo, Nga, và Pháp, mỗi người cầm một chiếc kéo lớn. Chú thích tại thời điểm xuất bản bức tranh là: “Thưa các ngài, các ngài có thể cắt tấm bản đồ này tùy thích; nhưng hãy nhớ rằng tôi sẽ ở lại đây, và các ngài không thể chia cắt tôi thành các vùng ảnh hưởng!” © Thư viện Ảnh Niday/Alamy

 

Các vùng ảnh hưởng là một kiểu sắp đặt thế giới của các cường quốc. Theo truyền thống, nó là sự phân chia lãnh thổ ngầm giữa các cường quốc, đi kèm với một hiểu biết chung về cách để duy trì trật tự và giải quyết bất đồng. (Việc phân chia này là nhằm phân định các khu vực thống trị, chứ không chỉ đơn thuần là ảnh hưởng, nên “vùng kiểm soát” có lẽ là một cái tên chính xác hơn.) Thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng trong bối cảnh Trò chơi Lớn (Great Game, cuộc đối đầu giữa Đế quốc Anh và Đế quốc Nga vào thế kỷ 19). Năm 1869, nhà ngoại giao Nga Alexander Gorchakov đã trấn an Lord Clarendon, Ngoại trưởng Anh lúc bấy giờ, rằng Afghanistan nằm “hoàn toàn bên ngoài vùng mà Nga có thể được yêu cầu thể hiện ảnh hưởng của mình.” Một loạt các cuộc tham vấn giữa các cường quốc đã bắt đầu với Hội nghị Vienna vào năm 1814-1815, theo sau là Hội nghị Berlin nổi tiếng năm 1884-1885, nhằm phân chia châu Phi giữa các cường quốc châu Âu. Hệ thống hòa hợp quyền lực của các cường quốc này nhằm mục đích đạt được sự cân bằng quyền lực trên châu Âu lục địa, cũng như phân định các khu vực kiểm soát ở những vùng lãnh thổ xa hơn.

Trong bối cảnh hiện tại, chúng ta có thể hình dung ra một kế hoạch phân chia ngầm giữa ba cường quốc – Mỹ, Nga, và Trung Quốc – như sau: Washington sẽ chiếm ưu thế ở châu Mỹ, châu Âu, một số vùng Trung Đông, Nhật Bản, và Australia; Moscow sẽ có ảnh hưởng tại “vùng lân cận” của Nga; và Bắc Kinh có lẽ sẽ thống trị một phần Đông Á và hầu hết Đông Nam Á. Những cách sắp đặt khác cũng có thể hình dung được.

Xin nói rõ, Mỹ không có chính sách vùng ảnh hưởng chính thức nào, và khó có khả năng xuất hiện một tuyên bố như vậy trong tương lai gần, nếu không muốn nói là không bao giờ. Tuy nhiên, có nhiều dấu hiệu cho thấy một đại chiến lược rất khác đang được thử nghiệm so với những thập kỷ đơn cực kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.

Chính quyền Biden đã nỗ lực hết mình để duy trì bá quyền Mỹ. Dù đôi khi họ cũng tán thành một trật tự đa cực, nhưng chính sách trên thực tế của họ là duy trì sự thống trị của Mỹ trên toàn cầu và trong mọi khía cạnh của quyền lực: quân sự, kinh tế, và thể chế. Việc chính quyền mới thừa nhận rõ ràng hơn về trật tự đa cực là khởi đầu đầy hứa hẹn cho việc cải cách chính sách đối ngoại của Mỹ.

Và không chỉ có những lời lẽ rõ ràng hơn, các chính sách của chính quyền Trump cũng thực sự tuân theo quan điểm về một thế giới đa cực. Sự hoài nghi của họ đối với chủ nghĩa đa phương và chủ nghĩa toàn cầu, việc gần như loại bỏ viện trợ nước ngoài, chấp nhận mở rộng lãnh thổ ở Tây Bán cầu, và sẵn sàng nhường sân sau cho Nga đều là những khác biệt lớn so với quá khứ. Sau một cuộc thương chiến ngắn ngủi, Mỹ và Trung Quốc giờ đây đã công bố những gì có vẻ là một thỏa thuận đột phá. Trước đây, chính Trump từng bày tỏ sự hoài nghi về việc bảo vệ Đài Loan và thể hiện sự háo hức về một cuộc mặc cả lớn với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Trump cũng sẵn lòng đàm phán một thỏa thuận cắt giảm vũ khí hạt nhân với Nga và Trung Quốc, trong đó ngân sách quốc phòng của mỗi bên bị cắt giảm một nửa. Và trong khi cựu Tổng thống Joe Biden hành động thận trọng và từ chối tái gia nhập thỏa thuận hạt nhân Iran được đàm phán dưới thời Obama, Trump lại chọn khởi xướng các vòng đàm phán lớn với Tehran – từ đó có thể tránh được nguy cơ chiến tranh Trung Đông và thực sự công nhận Cộng hòa Hồi giáo là một tay chơi trong khu vực

Dù vẫn cho thấy dấu hiệu sẵn sàng thỏa thuận ở những nơi khác, nhưng chính quyền Mỹ đã tập trung đặc biệt vào Tây Bán cầu; Rubio thậm chí còn nói về nó như một “ngôi nhà chung.” Việc công khai bày tỏ mong muốn mua lại Kênh đào Panama, Greenland, và Canada cho thấy Mỹ đang tập trung vào châu Mỹ nhiều hơn so với những thập kỷ trước. Những động thái này ẩn ý về sự trở lại của Học thuyết Monroe và có thể là cả Hệ luận Roosevelt năm 1904, trong đó Washington tự cho mình quyền can thiệp vào châu Mỹ. Ngoài ra, các chính sách thuế quan của Washington dành cho các quốc gia Mỹ Latinh cũng ít khắc nghiệt hơn hầu hết các quốc gia khác – đây có lẽ là cái gật đầu đối với mô hình “Pháo đài Châu Mỹ,” nhằm tạo ra một vị trí tại bàn đàm phán cho các quốc gia Mỹ Latinh và một vùng đệm chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc.

Nếu Mỹ giới hạn vùng thống trị chỉ ở sân sau của mình và một nhóm đồng minh và đối tác ở châu Âu và châu Á, thì Nga và Trung Quốc có thể sẽ chấp nhận điều đó. Tuy nhiên, tầm nhìn của Washington lại đang dần mở rộng hơn. Việc Trump “lên lớp” Tổng thống Nam Phi Cyril Ramaphosa tại Phòng Bầu dục với những cáo buộc sai lệch về nạn diệt chủng người da trắng ở Nam Phi là một sự xâm phạm sâu sắc vào chủ quyền của cường quốc hàng đầu châu Phi. Chính quyền Trump cũng đã nhắm vào BRICS, đồng thời quyết định tẩy chay hội nghị thượng đỉnh G-20 sắp tới tại Johannesburg. Và triển vọng kiểm soát các nguồn dự trữ coban có giá trị có lẽ đã giải thích cho sự quan tâm đột ngột của người Mỹ đối với việc hòa giải ngoại giao tại Cộng hòa Dân chủ Congo.

Gần đây nhất, Mỹ đã gây sức ép buộc nhiều nước trên thế giới loại Trung Quốc khỏi nền kinh tế của họ bằng cách sử dụng chính sách thuế quan của mình như một công cụ. Chuyến đi gần đây của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Pete Hegseth tới Philippines và Nhật Bản cho thấy sự tiếp nối trọng tâm của chính quyền Biden là chống lại Trung Quốc ngay tại sân nhà của Bắc Kinh. Manila hiện là một nút thắt ngày càng quan trọng trong chiến lược đó, vốn cũng gồm một trọng tâm là Đài Loan. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, tuyên bố của Washington về quyền khai thác các nguồn tài nguyên đáy biển có giá trị ở vùng biển quốc tế – một việc làm vi phạm chuẩn mực quốc tế – cho thấy rằng Mỹ đang tìm cách tăng cường sự thống trị của mình đối với các tài sản chung toàn cầu.

Rõ ràng, vùng ảnh hưởng mà Mỹ mong muốn trải rộng khắp nơi, vượt xa Tây Bán cầu và các liên minh cốt lõi của riêng họ. Điều chúng ta đang chứng kiến có thể không phải là nỗ lực phân chia thế giới một cách cân bằng giữa các cường quốc, mà là các nhượng bộ có giới hạn về địa lý và các lĩnh vực khác đối với Nga (và có lẽ cả Trung Quốc, như được thể hiện qua những nhượng bộ trong thỏa thuận thương mại gần đây) – tất cả đều nhằm mục đích mở rộng quyền kiểm soát của Mỹ đối với các khoáng sản, chuỗi cung ứng, và khu vực địa lý quan trọng trên khắp phương Nam toàn cầu, cũng như củng cố quyền thống trị đối với các tài sản chung toàn cầu.

Liệu Moscow và Bắc Kinh có chịu chấp nhận một kịch bản như vậy hay không? Nếu doanh số bán năng lượng và quốc phòng của Nga phần lớn không bị ảnh hưởng, và đạt được sự đồng thuận với Washington về Bắc Cực, thì Nga có thể sẽ khá hài lòng. Xét cho cùng, Moscow là cường quốc yếu nhất trong ba cường quốc hàng đầu, với năng lực an ninh hạn chế. Nhưng Trung Quốc đã nổi lên như một đối thủ ngang tầm với Mỹ trên hầu hết mọi lĩnh vực. Bắc Kinh hiện là một đối thủ có tầm ảnh hưởng thực sự toàn cầu về thương mại, đầu tư, công nghệ, và chuỗi cung ứng. Nhờ sự trỗi dậy nhanh chóng, phạm vi lợi ích an ninh của Trung Quốc cũng ngày một lớn hơn. Bắc Kinh từ lâu đã khó chịu với những nỗ lực của Mỹ nhằm giam hãm nước này trong chuỗi đảo thứ nhất. Nói đơn giản, Trung Quốc khó có thể chấp nhận một vùng ảnh hưởng được ấn định chỉ giới hạn ở vùng biển ven bờ của mình.

Cuộc cạnh tranh giữa các siêu cường được Mỹ công khai ủng hộ trong nhiệm kỳ đầu tiên của Trump cũng đã an ninh hóa thương mại và đầu tư toàn cầu, qua đó đánh dấu sự bác bỏ luận thuyết “thế giới phẳng” của thập niên 1990 – thời kỳ hoàng kim của kỷ nguyên đơn cực. Được nhà phân tích địa chính trị Thomas L. Friedman cùng nhiều người khác ủng hộ, lý thuyết này cho rằng sự di chuyển không bị cản trở của hàng hóa, con người, và ý tưởng sẽ ngày càng trở thành tương lai của chúng ta. Biên giới sẽ trở nên dễ xuyên thủng, kinh tế sẽ được thúc đẩy bởi sự chênh lệch giá, an ninh sẽ được tập thể hóa, và các cuộc can thiệp quân sự của phương Tây sẽ chủ yếu mang tính nhân đạo. Thế nhưng, sự trả thù của địa chính trị, được khởi xướng vào năm 2017 với nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của Trump, đã chứng minh rằng thế giới này gồ ghề hơn là bằng phẳng. Địa lý, cùng với chủ nghĩa dân tộc và chủ quyền, hóa ra lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Nhưng sẽ là một sai lầm nếu chúng ta bù đắp quá mức cho những sai lầm của luận thuyết thế giới phẳng bằng cách chấp nhận quan điểm ngược lại – rằng các quốc gia hùng mạnh có thể định hình lại sự phụ thuộc lẫn nhau theo ý muốn của họ, và với chi phí thấp. Thương mại, đầu tư, và chuỗi cung ứng đã được toàn cầu hóa triệt để trong thế kỷ 21 đến mức khó có thể hình dung một sự tách biệt gọn gàng, ngay cả bởi cuộc chiến thuế quan hiện tại. Khi nói đến các nguồn tài nguyên và sản phẩm quan trọng, không một quốc gia nào có thể tự cung tự cấp.

Việc tháo gỡ, định hình lại, và ổn định các chuỗi cung ứng mới theo các tuyến đường được ưa chuộng về mặt địa chính trị có thể mất nhiều năm, thậm chí nhiều chục năm, để hiện thực hóa, với cái giá phải trả là tình trạng khan hiếm và lạm phát đáng kể. Và nhiều chuỗi cung ứng này cũng chạy qua các nước phương Nam toàn cầu, nơi đã thay đổi đáng kể trong những thập kỷ gần đây.

Một bức tranh minh họa năm 1805 mô tả Thủ tướng Anh William Pitt và Hoàng đế Pháp Napoleon I đang phân chia thế giới thành các vùng ảnh hưởng. © GL Archive/Alamy

 

Dự án các vùng ảnh hưởng của thế kỷ 19 đã được hình thành mà bỏ qua phần lớn các quốc gia phương Nam toàn cầu khi đó vẫn là thuộc địa, những nước thực tế không có tiếng nói đối với cách các cường quốc thời đó quyết định vận mệnh của những dân tộc khác nhau. Tuy nhiên, “hệ thống hòa hợp quyền lực” giữa các cường quốc đương đại nhằm phân chia thế giới sẽ vấp phải sự phản đối gay gắt từ một loạt các quốc gia đang phát triển trải dài từ Thành phố Mexico đến Manila. Và sự khác biệt là, ngày nay, một số quốc gia trong nhóm này có thể làm được gì đó để chống lại.

Hơn năm thập kỷ sau khi phi thực dân hóa, các cường quốc tầm trung của phương Nam toàn cầu vô cùng tự hào về quyền tự chủ mà họ khó khăn lắm mới giành được. Họ đã trở nên khôn ngoan hơn nhờ quá trình xã hội hóa do toàn cầu hóa tạo ra. Phần lớn họ hiện cũng có tầm ảnh hưởng lớn trong khu vực. Họ không đủ sức mạnh để sắp xếp lại thế giới theo ý muốn của mình. Nhưng họ có cách để làm phức tạp dự án các vùng ảnh hưởng. Và rất có thể nhiều quốc gia trong số này, dù phải đối mặt với những trở ngại ngắn hạn do sự thay đổi chiến lược của Washington, sẽ trở nên kiên cường hơn trong dài hạn.

Trong ngắn hạn, có thể thấy rõ rằng những thay đổi ở Washington là tin xấu đối với phương Nam toàn cầu, ngay cả đối với những khu vực năng động nhất của nó. Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có thể mất một phần tư mức tăng trưởng dự kiến trong vài năm tới do các rào cản thương mại mới của Mỹ. Các quốc gia được cho là kém phát triển nhất, hầu hết nằm ở châu Phi, có thể phải chịu các cuộc khủng hoảng nhân đạo và bất ổn lớn hơn.

Ngoài mặt, các quốc gia phương Nam toàn cầu, từ Mexico đến Việt Nam, đã phản ứng với việc Mỹ quay lưng lại với chủ nghĩa toàn cầu trên cơ sở cá nhân, chứ không phải tập thể. Nhưng việc các phái đoàn chính phủ đổ xô đến Washington không phải là dấu hiệu của sự đầu hàng, mà là của chủ nghĩa thực dụng vốn có của phương Nam toàn cầu mới. Các quốc gia này chỉ đơn thuần muốn hạn chế thiệt hại từ chủ nghĩa bảo hộ mới.

Mặt khác, thế giới cũng đã chuẩn bị tốt hơn để vượt qua cuộc nổi loạn thương mại của Washington so với hồi thập niên 1990; trật tự thương mại thế giới đã và đang tiếp tục trở nên đa cực. Ví dụ, tỷ lệ xuất khẩu của ASEAN sang Mỹ đã giảm đều đặn kể từ năm 2000, từ khoảng 24% xuống dưới 15% hiện nay. Ở châu Phi, Mỹ chỉ chiếm một phần nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu khi so sánh với nhập khẩu của châu lục này.

Washington hiện đã bị xem là một đối tác không đáng tin cậy, và hệ quả là các tính toán chi phí-lợi ích dài hạn của các quốc gia phương Nam toàn cầu đã thay đổi hoàn toàn. Sự không đáng tin cậy và biến động sẽ tự nhiên thúc đẩy các chiến lược đa dạng hóa. Sự hấp dẫn của các cực kinh tế mới – ASEAN, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, và các quốc gia vùng Vịnh, cùng nhiều quốc gia khác – đã tăng lên đáng kể, trong khi các cường quốc tầm trung đã được xác lập như Liên minh châu Âu, Canada, và Nhật Bản tiếp tục đóng vai trò là nhân tố giúp ổn định hệ thống thương mại toàn cầu.

Các quốc gia phương Nam toàn cầu không ủng hộ một cuộc chiến tranh lạnh mới giữa các cường quốc, hoặc một sự phân chia thế giới thành các vùng ảnh hưởng. Chiến lược phòng bị nước đôi từ lâu đã là phản ứng của họ. Nhưng giờ đây, Washington đang sử dụng công cụ thuế quan để buộc các quốc gia khác phải loại trừ Trung Quốc.

Một phản ứng hợp lý cho bài kiểm tra này là phù thịnh (bandwagoning). Các quốc gia phương Nam toàn cầu có thể chọn Mỹ hoặc Trung Quốc (hoặc trong một vài trường hợp là Nga) làm điểm tựa địa chính trị chính của họ. Nếu phù thịnh trở thành xu hướng mới ở phương Nam toàn cầu, thì đây sẽ là một cú hích cho một thế giới được phân chia thành các vùng ảnh hưởng. Nhưng Washington có thể không phải là bên hưởng lợi ròng. Bất chấp sự cảnh giác của một số quốc gia phương Nam toàn cầu (đặc biệt là ở châu Á) đối với Bắc Kinh, nhiều người trong số họ có thể sẽ đánh giá rằng Trung Quốc là bên ít rủi ro hơn trong hai bên, nếu buộc phải đưa ra lựa chọn. Bắc Kinh hiện đã là một trong những đối tác kinh tế lớn nhất của họ, và giờ đây còn có thể tự xưng là đáng tin cậy hơn Washington.

Cũng có một khả năng hấp dẫn là các quốc gia phương Nam toàn cầu sẽ tránh chọn một cường quốc bảo trợ duy nhất, và thay vào đó, tập trung làm sâu sắc hơn các quan hệ với nhau. Điều này có thể diễn ra dưới hình thức các cấu trúc khu vực mạnh mẽ hơn. Chile và Brazil đang dẫn đầu xu hướng này ở Mỹ Latinh. Nhưng chính ở châu Á, chủ nghĩa khu vực mới thực sự có thể phát triển mạnh mẽ, với ASEAN đã là một ví dụ thành công. Trong những tuần gần đây, ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, và Hàn Quốc đã tuyên bố tăng cường cơ chế ổn định tài chính khu vực của riêng họ, Sáng kiến Chiang Mai. Philippines, vốn bị đe dọa bởi các cuộc xâm nhập bất hợp pháp của Trung Quốc, vẫn sẽ tiếp tục coi Mỹ là đồng minh cốt lõi của mình. Nhưng Manila đang củng cố quan hệ đối tác an ninh với các cường quốc châu Á khác như một bảo hiểm dài hạn chống lại sự biến động của Mỹ.

Hội nhập xuyên khu vực, hiện còn rất yếu, cũng có thể được thúc đẩy. Khối BRICS đang mở rộng nhanh chóng – một liên minh dựa trên lợi ích giữa Nga, Trung Quốc, và một nhóm các quốc gia phương Nam toàn cầu – có thể là nền tảng cho sự hội nhập này. Sự mở rộng nhanh chóng và sức hút ngày càng tăng của BRICS là một tín hiệu về nhu cầu khắc phục những thất bại nghiêm trọng trong hệ thống quốc tế. BRICS không được thiết kế để trở thành, và sẽ không bao giờ trở thành, một câu lạc bộ an ninh. Nhưng với việc Mỹ bị xem là một đối tác không đáng tin cậy, hợp tác địa chính trị vượt ra ngoài các vấn đề kinh tế hẹp hơn đang nổi lên như một lợi ích chung cho các cường quốc tầm trung thuộc BRICS.

Đúng là các vùng ảnh hưởng đã giúp gìn giữ hòa bình ở châu Âu trong phần lớn thế kỷ 19, nhưng sự sắp đặt này không kéo dài. Khi các quốc gia bắt đầu  trỗi dậy, lợi ích của họ cũng mở rộng. Khi một quốc gia mới – Đức – vươn lên và cố gắng trở thành một cường quốc, Anh và Pháp đã không thể chấp nhận điều đó. Các tranh chấp bắt đầu nảy sinh, xoay quanh vấn đề thuộc địa, và trở thành những yếu tố gây mất ổn định lớn. Các thỏa thuận như Hội nghị Berlin đã trì hoãn kết cục tồi tệ, nhưng không được lâu. Và sự sụp đổ của hệ thống hòa hợp quyền lực châu Âu đã giải phóng một cuộc thế chiến kinh hoàng vào năm 1914.

Nếu kiểm soát và phân chia lãnh thổ trở thành thước đo mới của quyền lực và thành công, thì bất kỳ hiểu biết nào từng tồn tại giữa các cường quốc ngày nay đều có thể chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Đối với một số cường quốc tầm trung trong trật tự hiện tại, tham vọng của họ đương nhiên sẽ mở rộng khi họ trỗi dậy. Một số thậm chí có thể mong muốn có các vùng kiểm soát của riêng mình. Lời hứa về hòa bình trong một thế giới của các vùng ảnh hưởng cuối cùng có thể chỉ là một ảo ảnh.

Sarang Shidore là Giám đốc Chương trình Phương Nam toàn cầu của Viện Quincy. Các nghiên cứu của ông tập trung vào địa chính trị phương Nam toàn cầu, Châu Á, và biến đổi khí hậu.