Các kịch bản và động lực tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2025

Nguồn: Michael Pettis, “How to Predict China’s Economic Performance for 2025: A Sectoral Approach”, Carnegie China, 21/05/2025

Biên dịch: Tạ Kiều Trang

Tăng trưởng GDP ở Trung Quốc về cơ bản rất khác so với phần lớn các quốc gia.

Cứ vài tuần hoặc vài tháng một lần, các tổ chức như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới và các ngân hàng toàn cầu lớn lại cập nhật các dự báo về tăng trưởng GDP của Trung Quốc và điều chỉnh chúng theo số liệu mới. Trong năm 2025, vòng lặp điều chỉnh này vẫn tiếp tục diễn ra theo khuôn mẫu quen thuộc: các mức dự báo được điều chỉnh tăng hoặc giảm dựa trên số liệu hàng tháng, chuyển dịch động lực thương mại toàn cầu, hoặc dựa trên những động thái chính sách của Bắc Kinh.

Ngay từ đầu năm 2025, các nhà phân tích đã phải điều chỉnh ước tính của họ nhiều lần. Vào đầu năm, hầu hết các ngân hàng đều dự đoán tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong năm 2025 sẽ thấp hơn nhiều so với mục tiêu tăng trưởng GDP 5%. Tuy nhiên, những kỳ vọng này đã thay đổi vào cuối tháng Ba, sau khi giới lãnh đạo Trung Quốc đưa ra những tuyên bố đầy tham vọng về kinh tế trong các phiên họp Lưỡng Hội thường niên diễn ra vào tháng Ba. Theo tờ Wall Street Journal, các ngân hàng HSBC, ANZ và Citi đã nâng dự báo tăng trưởng GDP của Trung Quốc lên các mức lần lượt là 4,8%, 4,8% và 4,7% – tăng từ mức ước tính trước đó là 4,5%, 4,3% và 4,2%.

Tuy vẫn còn tương đối thận trọng nhưng các tổ chức như Morgan Stanley, BBVA và Nomura cũng đã tăng nhẹ mức dự báo của mình. Liên Hợp Quốc và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự đoán tăng trưởng vượt mức 4,5%, qua đó đưa những ước đoán này tiến gần hơn với chỉ tiêu chính thức của chính phủ Trung Quốc.

Đến giữa tháng Tư, khi thương chiến trở thành tâm điểm, tâm lý thị trường lại một lần nữa xoay chiều. Theo Bloomberg, UBS nằm trong số những tổ chức bi quan nhất – tổ chức này viện dẫn thuế quan mới của Mỹ làm lý do để dự đoán tăng trưởng chỉ còn 3,4%. Đáp lại những dự đoán nhìn chung là ảm đạm, ông Lam Phật An, Bộ trưởng Bộ Tài chính Trung Quốc, đã tái khẳng định cam kết của chính phủ ở các phiên họp là đạt được mục tiêu 5%, đồng thời hứa hẹn các biện pháp kinh tế vĩ mô mang tính chủ động hơn.

Tuy nhiên, kỳ vọng lại một lần nữa thay đổi sau khi Mỹ và Trung Quốc công bố một thỏa thuận thương mại tại Thụy Sĩ vào tuần trước, khiến hầu hết các ngân hàng lập tức nâng dự báo tăng trưởng GDP. Một số ngân hàng thậm chí còn nâng dự báo thêm tận 0,6 điểm phần trăm.

Những biến động quá lớn trong các dự báo về tăng trưởng khiến người ta phải đặt ra một câu hỏi sâu xa hơn: Liệu dự báo tăng trưởng GDP có phải là thước đo tốt nhất để đánh giá hiệu năng của nền kinh tế của Trung Quốc? Liệu có hợp lý không khi cho rằng mức tăng trưởng dự kiến của một quốc gia trong một năm nhất định có thể thay đổi thực sự nhiều và nhanh đến vậy?

Mục tiêu tăng trưởng GDP của Trung Quốc: Là công cụ chính sách, không phải là con số dự báo

Câu trả lời có lẽ là không. Ở Trung Quốc, mục tiêu tăng trưởng GDP không được đặt ra dựa trên tình hình kinh tế, mà dựa trên các mục tiêu chính trị đã được định sẵn. Khác với hầu hết các nền kinh tế thị trường mà ở đó tăng trưởng GDP là kết quả tổng hợp của các quyết định đến từ khu vực tư nhân và nhà nước – điều biến thiên tuỳ vào những điều kiện cơ bản, mục tiêu tăng trưởng của Trung Quốc lại là một định hướng chính sách. GDP đóng vai trò chỉ tiêu đầu vào cho kế hoạch của chính phủ, không phải là con số dự báo khách quan.

Chính phủ Trung Quốc đặt ra mục tiêu tăng trưởng hàng năm và sau đó đảm bảo nền kinh tế sẽ đạt được con số đó, ngay cả khi để làm được như thế sẽ phải cần đến sự can thiệp mạnh tay từ nhà nước. Nếu tăng trưởng tự nhiên không đạt yêu cầu, doanh nghiệp nhà nước, chính quyền địa phương và một số doanh nghiệp tư nhân được ưu ái – nhất là doanh nghiệp trong những lĩnh vực chiến lược như trí tuệ nhân tạo, xe điện và năng lượng sạch – họ sẽ được chỉ đạo vào cuộc. Các chủ thể này hoạt động dưới những “ràng buộc ngân sách mềm” (soft budget constraints), tức là về mặt bản chất, họ được tiếp cận nguồn tín dụng không giới hạn và không phải đối mặt với rủi ro phá sản theo cách thông thường.

Trái lại, ở hầu hết các nền kinh tế khác, phần lớn hoạt động kinh tế sẽ diễn ra dưới những “ràng buộc ngân sách cứng” (hard budget constraints). Doanh nghiệp và nhà đầu tư chỉ theo đuổi dự án nếu kỳ vọng về lợi nhuận tương xứng với rủi ro. Các khoản đầu tư kém hiệu quả sẽ dẫn đến thua lỗ, hiệu suất yếu kém liên tục sẽ dẫn đến phá sản. Kỷ luật tài chính như vậy giúp đảm bảo rằng tăng trưởng, khi đến, sẽ thường đi đôi với việc tạo ra giá trị kinh tế thực tế trong trung hạn.

Nhưng tại Trung Quốc, nơi chính phủ có thể chỉ đạo và trợ cấp đầu tư, miễn là còn dư địa vay nợ và miễn là họ sẵn sàng sử dụng khoản nợ đó để tài trợ các hoạt động có ngân sách “mềm”, dù có kém hiệu quả đến mấy, do đó bất kỳ mục tiêu GDP nào cũng có thể đạt được – ít nhất là trong ngắn hạn. Vấn đề là kiểu tăng trưởng này có thể đẩy con số GDP danh nghĩa lên cao mà không nhất thiết cần phải cải thiện năng suất hay sức chống chịu của nền kinh tế về lâu dài.

Sự khác biệt cốt lõi giữa “lượng” và “chất” trong tăng trưởng

Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc không phải là không nhận thức được vấn đề này. Trên thực tế, họ ngày càng nhấn mạnh tầm quan trọng của “tăng trưởng chất lượng cao” – một thuật ngữ dùng để phân biệt giữa tăng trưởng được thúc đẩy bởi nhu cầu thực và năng suất, với tăng trưởng nhờ vào vay nợ và xây dựng công trình dư thừa. Trong năm 2024, tạp chí Cầu Thị (cơ quan lý luận hàng đầu của ĐCSTQ) một lần nữa nhấn mạnh sự cần thiết phải thoát khỏi lệ thuộc vào đầu tư nhờ vay mượn, hướng đến tăng trưởng dựa vào tiêu dùng nội địa.

Nhưng vì ai ai cũng biết điều trên, khi các nhà phân tích trên thế giới điều chỉnh dự báo GDP lên hay xuống, có lẽ là họ đang ám chỉ một sự thay đổi về “chất” trong tăng trưởng dự kiến, chứ không phải “lượng”. Điểm khác biệt này rất quan trọng. Chi tiêu tiêu dùng cao hơn kỳ vọng, đầu tư doanh nghiệp nhiều hơn hay hoạt động xuất khẩu mạnh hơn không có nghĩa là tăng trưởng GDP sẽ cao hơn. Thay vào đó, điều này cho thấy chính phủ sẽ ít phải phụ thuộc hơn vào những khoản đầu tư lãng phí vào cơ sở hạ tầng hay bất động sản để đạt mục tiêu tăng trưởng. Mục tiêu vẫn giữ nguyên – chỉ có cơ cấu và chất lượng tăng trưởng thay đổi.

Vì sao nên dự báo tăng trưởng theo từng lĩnh vực?

GDP của Trung Quốc đã được định sẵn về mặt chính trị, vì thế dự báo một mình GDP thôi không giá trị bằng việc dự báo về các thành tố cấu thành GDP. Một phương pháp phân tích thích hợp hơn là giả định rằng chỉ tiêu 5% sẽ đạt được – như thường lệ, và nên tập trung vào cách thức để đạt được mức tăng trưởng đó nhờ vào một số tổ hợp giữa tăng trưởng tiêu dùng, tăng trưởng đầu tư và tăng trưởng xuất khẩu ròng. Trong trường hợp triển vọng tương lai về tăng trưởng chất lượng cao – bao gồm tiêu dùng, xuất khẩu hay đầu tư kinh doanh – được cải thiện, thay vì dự báo mức tăng trưởng cao hơn, các nhà phân tích nên dự báo quy mô tăng trưởng như cũ nhưng nhấn mạnh rằng tăng trưởng đó sẽ có chất lượng cao hơn và bền vững hơn.

Tăng trưởng GDP có thể hiểu một cách tổng quát là sự tổng hợp của ba nhóm:

ΔGDP = ΔTiêu dùng + ΔĐầu tư + ΔXuất khẩu ròng

Theo số liệu phân tích chính thức, trong năm 2024, mức đóng góp vào tăng trưởng GDP của từng hạng mục như sau:

    • Tiêu dùng: 2,2 điểm phần trăm, tức 45% tăng trưởng GDP năm 2024
    • Đầu tư: 1,2 điểm phần trăm, tức 25% tăng trưởng GDP năm 2024
    • Xuất khẩu ròng: 1,5 điểm phần trăm, tức 30% tăng trưởng GDP năm 2024
      (Tổng cộng: 5,0 điểm phần trăm)

Phân tích trên tiết lộ rất nhiều điều. Đáng lưu tâm nhất là trong năm 2024, mức đóng góp của tiêu dùng vào tăng trưởng GDP thấp một cách bất thường, nhất là nếu so với thời kỳ trước COVID-19, khi tiêu dùng thường chiếm khoảng 60% mức tăng trưởng GDP hàng năm. Thậm chí mức 60% đóng góp vào tăng trưởng GDP vẫn còn quá thấp – tiêu dùng phải đóng góp trung bình 80 – 90% tăng trưởng GDP trong mười năm tới, nếu Trung Quốc muốn nâng tỷ trọng tiêu dùng trong GDP thêm 10 điểm phần trăm. (Ông Lưu Thế Cẩm, cựu Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển thuộc Quốc vụ viện, gần đây cũng lưu ý, tỷ trọng của tiêu dùng trong GDP Trung Quốc hiện thấp hơn khoảng 20 điểm phần trăm so với mức “bình thường”).

Trái ngược với hiệu suất quá kém của tiêu dùng, đóng góp của xuất khẩu ròng vào tăng trưởng GDP năm 2024 ở mức cực kỳ cao. Với mức tăng trưởng tiêu dùng và xuất khẩu ròng như vậy, muốn đạt mục tiêu tăng trưởng GDP, Bắc Kinh phải đảm bảo đầu tư đóng góp 1,2 điểm phần trăm (tức 25% tăng trưởng GDP) trong năm 2024. Bắc Kinh đã làm được, bằng cách chỉ đạo các ngân hàng tăng cường cho các ngành công nghiệp ưu tiên vay vốn và chỉ thị chính quyền địa phương cùng các đơn vị chuyên trách mở rộng hoạt động đầu tư.

Bằng cách đối chiếu ba thành tố cấu thành tăng trưởng với kỳ vọng của năm nay, ta có thể phân tích được diễn tiến của nền kinh tế Trung Quốc trong năm 2025 – cũng như hệ quả của nó đối với các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế Trung Quốc và toàn cầu. Nhưng phân tích này nên bắt đầu với tiêu dùng và xuất khẩu ròng trước tiên, bởi đây là những thành tố có ngân sách “cứng” mà Bắc Kinh vốn không thể kiểm soát. Trong trường hợp này, đầu tư chính là “phần bù còn lại” cần thiết để đạt được mục tiêu tăng trưởng.

    • Tiêu dùng: Dù được kỳ vọng nhiều vào năm ngoái nhưng hiệu suất của tiêu dùng trong năm 2024 rất kém. Vì Bắc Kinh đã đặt mục tiêu kinh tế hàng đầu của năm nay là phục hồi tiêu dùng, dự báo năm 2025 do đó có thể bắt đầu từ giả thiết rằng tiêu dùng sẽ trở lại mức trước COVID-19, hoặc cao hơn, qua đó đóng góp 3 đến 3.5 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP (tức 60 – 70% tăng trưởng GDP năm nay). Con số ước lượng này tất nhiên sẽ thay đổi trong năm, tuỳ thuộc vào việc Bắc Kinh sẽ công bố hay không công bố biện pháp mới để thúc đẩy tiêu dùng nội địa.
    • Xuất khẩu ròng: Ngược lại, xuất khẩu ròng thể hiện cực kỳ ấn tượng trong năm 2024, đóng góp tới 30% tăng trưởng GDP của năm. Để làm được điều này, thặng dư thương mại hàng năm của Trung Quốc đã tăng phi mã lên 21% trong năm 2024, nếu so với hai mức vốn cũng đã rất cao là 8% trong năm 2023 và 13% trong năm 2022, thời điểm mà thặng dư thương mại chạm trần kỷ lục. Nếu giả thiết rằng (1) áp lực toàn cầu sẽ khiến Trung Quốc không thể tái lập lại mức tăng trưởng như năm ngoái – và (2) trong kịch bản tốt nhất, hiệu suất xuất khẩu ròng của Trung Quốc sẽ trở lại mức trung bình – thì trong năm 2025, đóng góp của xuất khẩu ròng vào tăng trưởng GDP có thể sẽ đi ngang, dao động trong khoảng từ âm 0,5 đến dương 0,5 điểm phần trăm. Một lần nữa, con số này sẽ biến động trong năm tùy theo diễn biến của xung đột thương mại toàn cầu.
    • Nếu giả thiết rằng tiêu dùng nội địa và xuất khẩu ròng cùng đóng góp khoảng 3,0 – 3,5 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP, để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP 5%, Bắc Kinh sẽ phải dàn xếp một mức tăng đầu tư đủ lớn để tạo ra 1,5 – 2,0 điểm phần trăm tăng trưởng, tức là một mức tăng đáng kể so với mức 1,2 điểm phần trăm của năm ngoái. Điều này gần như chắc chắn sẽ diễn ra.

Trong trường hợp đó, ta có thể đưa ra các kịch bản tăng trưởng khác nhau có thể diễn ra trong năm 2025, lại bắt đầu từ phương trình cơ bản:

ΔGDP = ΔTiêu dùng + ΔĐầu tư + ΔXuất khẩu ròng

Sau đó, các thành phần khác nhau có thể được ước tính. Nếu các nhà phân tích không mấy lạc quan về tiêu dùng, họ có thể dự báo như sau:

    • Tiêu dùng: 3,0 điểm phần trăm, tức 60% tăng trưởng GDP năm 2025
    • Đầu tư: 2,0 điểm phần trăm, tức 40% tăng trưởng GDP năm 2025 (phần bù còn lại)
    • Xuất khẩu ròng: 0 điểm phần trăm, nhìn chung không đổi

(Tổng cộng: 5,0 điểm phần trăm)

Nếu lạc quan hơn về tiêu dùng và xuất khẩu ròng, họ có thể kỳ vọng như sau:

    • Tiêu dùng: 3,3 điểm phần trăm, tức 65% tăng trưởng GDP năm 2025
    • Đầu tư: 1,5 điểm phần trăm, tức 30% tăng trưởng GDP năm 2025 (phần bù còn lại)
    • Xuất khẩu ròng: 0,3 điểm phần trăm, tức 5% tăng trưởng GDP năm 2025

(Tổng cộng: 5,0 điểm phần trăm)

Trong cả hai trường hợp, Trung Quốc đều sẽ đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra vào tháng 3, nhưng cách thức để đạt được là rất khác nhau. Ví dụ, kịch bản thứ hai hàm ý tăng trưởng có chất lượng cao và bền vững hơn nhiều so với kịch bản thứ nhất, kéo theo đó là tỷ lệ nợ/GDP của quốc gia (debt-to-GDP ratio) cũng tăng ít hơn rất nhiều. Ngoài ra, kịch bản này còn đặt ra thặng dư thương mại của Trung Quốc lớn hơn, đi kèm với đó là những hệ quả về căng thẳng thương mại toàn cầu. Kịch bản cũng đặt ra việc Trung Quốc sẽ có nhu cầu thấp hơn đối với các mặt hàng công nghiệp (như sắt và thép) vốn cần thiết để đáp ứng mức đầu tư cao.

Phân tích mảng Đầu tư: Tăng trưởng sẽ đến từ đâu?

Bằng cách tập trung vào những thành tố trên, các nhà phân tích có thể đưa ra một cái nhìn thấu đáo hơn về cách Trung Quốc đạt được mục tiêu tăng trưởng của họ, cũng như loại chính sách hay dịch chuyển theo ngành nào sẽ giúp đưa đến kết quả đó. Ta thậm chí còn có thể thu được nhiều thông tin hơn thế. Nếu đầu tư phải tăng lên để lấp đầy khoảng trống do xuất khẩu yếu đi để lại, vậy dòng vốn đầu tư đó sẽ được phân bổ vào những ngành nào? Câu hỏi này sẽ làm sáng tỏ thêm về những thành tố cấu thành tăng trưởng tại Trung Quốc và những tác động mà nó có thể mang lại cho nền kinh tế toàn cầu.

Ba kênh đầu tư chính ở Trung Quốc là: bất động sản, hạ tầng và sản xuất. Bất động sản, trụ cột tăng trưởng của Trung Quốc bấy lâu nay, đã chìm trong khủng hoảng suốt nhiều năm và đóng góp mức tăng trưởng âm, biểu hiện thông qua sự thu hẹp tổng vốn đầu tư. Bất động sản khó có thể trở thành một động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng trong năm 2025, tuy vậy, nếu ổn định được thì ngành này sẽ không còn là một lực cản lớn như năm 2024.

Đầu tư sản xuất vẫn ở mức cao, nhưng công suất vốn đã đạt ngưỡng giới hạn. Với tình trạng công suất dư thừa và thuế tăng cao trên toàn cầu, đặc biệt là với công nghệ xanh và xe điện, việc đẩy nhanh tiến độ đầu tư tuy khả thi, nhất là khi đây có vẻ là lộ trình được giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc ưu tiên, nhưng gần như chắc chắn sẽ khiến bất đồng thương mại toàn cầu gia tăng.

Do đó, hạ tầng trở thành đòn bẩy được ưu tiên. Bắc Kinh có thể dựa vào doanh nghiệp nhà nước và chính quyền địa phương để xây dựng hạ tầng giao thông, năng lượng và hạ tầng số, với nguồn tài trợ đến từ trái phiếu địa phương và ngân hàng nhà nước. Dù có thể nâng GDP lên trong tạm thời, nhưng việc này lại khiến lợi nhuận dài hạn bị giảm đi và gánh nặng nợ của Trung Quốc thêm trầm trọng.

Dù không có đủ số liệu để tính toán chính xác mức đóng góp của ba mảng đầu tư trọng yếu vào tăng trưởng năm 2024 nhưng tôi xin đưa ra những ước tính hợp lý nhất có thể:

    • Đóng góp của đầu tư bất động sản: –1,5 điểm phần trăm
    • Đóng góp của đầu tư hạ tầng: +0,7 điểm phần trăm
    • Đóng góp của đầu tư sản xuất: +2,0 điểm phần trăm
    • Tổng đóng góp của đầu tư vào tăng trưởng GDP năm 2024: +1,2 điểm phần trăm

Mỗi thành tố đầu tư cần phải đóng góp vào bao nhiêu vào tăng trưởng trong năm 2025 để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP?

Đầu tư bất động sản có khả năng tiếp tục giảm trong năm 2025, nhưng sẽ giảm ít hơn so với năm 2024. Câu hỏi hay hơn là liệu Bắc Kinh sẽ tiếp tục dồn lực vào đầu tư sản xuất, hay sẽ cố gắng hạn chế tăng đầu tư sản xuất do xung đột thương mại ngày một xấu đi và khó khăn ngày càng tăng để bán được lượng hàng hoá sản xuất phát sinh thêm từ đó. Nếu rơi vào trường hợp sau, Bắc Kinh sẽ phải đẩy mạnh tăng trưởng đầu tư hạ tầng để đạt được mục tiêu. Đáng chú ý, việc này có thể đã bắt đầu diễn ra, bằng chứng là các dự án đường sắt đang được đẩy nhanh trong năm nay; Theo Tân Hoa Xã, đầu tư vào đường sắt tăng 5,3% trong bốn tháng đầu năm 2025.

Nếu giả định tiêu dùng và xuất khẩu ròng chiếm tổng cộng 70% tăng trưởng GDP trong năm 2025, vậy đầu tư sẽ phải chiếm 30%, tức 1,5 điểm phần trăm. Dưới đây là một giả thiết có thể xảy ra, tuỳ thuộc vào tình hình mảng bất động sản:

    • Đóng góp của đầu tư bất động sản: –1,0 điểm phần trăm
    • Đóng góp của đầu tư cơ sở hạ tầng: +0,7 điểm phần trăm
    • Đóng góp của đầu tư sản xuất: +1,8 điểm phần trăm
    • Tổng đóng góp của đầu tư vào tăng trưởng GDP năm 2025: +1,5 điểm phần trăm

Trong kịch bản nêu trên, tăng trưởng chi tiêu hạ tầng trong năm 2025 sẽ sánh kịp với năm 2024, đi kèm đó là những hệ quả về giá các mặt hàng công nghiệp và gánh nặng nợ công. Cùng lúc đó, Trung Quốc cũng giảm bớt được một chút phụ thuộc vào việc mở rộng thị phần sản xuất trên toàn cầu.

Mặt khác, nếu giả thiết rằng tiêu dùng và xuất khẩu ròng chỉ chiếm tổng cộng 60% tăng trưởng GDP năm nay, và điều này sẽ được cân bằng lại phần nào nhờ tăng trưởng âm của mảng bất động sản giảm đi đáng kể, thì kết quả có thể như sau:

    • Đóng góp của đầu tư bất động sản: –0,8 điểm phần trăm
    • Đóng góp của đầu tư cơ sở hạ tầng: +1,0 điểm phần trăm
    • Đóng góp của đầu tư sản xuất: +1,8 điểm phần trăm
    • Tổng đóng góp của đầu tư vào tăng trưởng GDP năm 2025: +2,0 điểm phần trăm

Trường hợp này cho thấy Bắc Kinh đã chuyển trọng tâm sang mở rộng chi tiêu cho cơ sở hạ tầng một cách nhanh chóng để đạt được mục tiêu tăng trưởng. Tin tốt là điều này có lợi cho giá cả các mặt hàng công nghiệp, tin xấu là gánh nặng nợ công sẽ trở nên xấu hơn so với những gì ta được chứng kiến trong năm 2024.

Hàm ý cho chính sách, nợ công và thị trường trên toàn cầu

Việc dự báo này không hề dễ dàng chút nào, nhưng so với việc dự đoán và thay đổi tỷ lệ tăng trưởng GDP kỳ vọng cho năm đó theo định kỳ, việc ước tính hiệu suất của các thành tố làm nên mức tăng trưởng GDP cần thiết để đạt được mục tiêu tăng trưởng của Trung Quốc mang đến một số ưu điểm. Thứ nhất và rõ ràng nhất, phương pháp này cho phép các nhà phân tích nhận diện rõ ràng vai trò của mục tiêu tăng trưởng GDP trong việc quyết định hiệu suất của nền kinh tế Trung Quốc mỗi năm. Thứ hai, các nhà hoạch định chính sách, nhà đầu tư và giới nghiên cứu có thể nắm được chất lượng tăng trưởng. Thứ ba, phương pháp này giúp xác định được ngành nào trong nền kinh tế Trung Quốc và nền kinh tế toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng bởi cơ cấu tăng trưởng của Trung Quốc.

Ví dụ, nếu Trung Quốc dựa nhiều vào hạ tầng để đạt được mục tiêu tăng trưởng, đây sẽ là một tin tốt cho những nước xuất khẩu vật liệu (đồng, thép), nhưng lại là tin xấu cho những ai chú ý đến tính bền vững của nợ công. Ngược lại, nếu tiêu dùng đóng vai trò quan trọng hơn, tăng trưởng từ đó sẽ ổn định hơn và được thúc đẩy nhờ nhu cầu – điều này sẽ tốt hơn cho các nhà bán lẻ nội địa, thương hiệu nước ngoài và thể trạng nền kinh tế về lâu dài.

Kết luận

Trừ phi một thảm hoạ xảy ra – là khi mọi dự báo đều không còn đúng nữa, thì Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025, nghĩa là vào quý IV năm 2025, dự báo của các tổ chức tài chính quốc tế sẽ đồng quy về mức 4,8 – 5,0%. Nói cách khác, tỷ lệ tăng trưởng được dự báo hồi đầu năm thấp hơn (mức trên) là gần như vô nghĩa về mặt dự đoán.

Tuy nhiên, thay vì dựa vào những dự báo tăng trưởng GDP biến động theo thời gian, các nhà phân tích, nhờ nhìn nhận mục tiêu tăng trưởng GDP và dự báo tăng trưởng trên cơ sở phân ngành, mới có thể tập trung vào thành phần của tăng trưởng – mới là thứ thực sự ảnh hưởng đến quá trình phát triển của nền kinh tế Trung Quốc. Cách tiếp cận này cho phép các nhà phân tích đưa ra một góc nhìn tốt hơn về cách Trung Quốc đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP của họ và những ngành nào sẽ được hưởng lợi nhiều nhất.

Ví dụ, cân nhắc lựa chọn giữa việc nỗ lực mạnh mẽ hơn nhằm thúc đẩy tiêu dùng nội địa, với việc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, sẽ có khuynh hướng xảy ra. Mỗi lựa chọn đều mang lại những hàm ý rất khác nhau cho nhà đầu tư, nhà sản xuất nước ngoài và giới hoạch định chính sách trong và ngoài Trung Quốc.

Mỗi lựa chọn cũng sẽ đưa đến những hệ quả hệ trọng đối với nợ công Trung Quốc. Nếu chính sách tài khoá nhằm thúc đẩy tiêu dùng có số nhân (multiplier) cao hơn chính sách tài khoá nhằm thúc đẩy đầu tư, nhất là với đầu tư hạ tầng (một điều gần như chắc chắn), vậy thì nếu như đầu tư hạ tầng đóng một vai trò lớn hơn dự kiến trong việc giúp đạt được mục tiêu tăng trưởng, trong khi tiêu dùng và xuất khẩu ròng đóng một vai trò bé hơn dự kiến, khi đó tỷ lệ nợ/GDP của Trung Quốc sẽ có khuynh hướng tăng cao hơn.

Điểm mấu chốt là tăng trưởng GDP ở Trung Quốc về cơ bản rất khác so với phần lớn các quốc gia. Ở phương Tây, GDP là kết quả đầu ra – một thước đo cho các hoạt động kinh tế vốn phát sinh từ vô vàn những quyết định mang tính phi tập trung – và do đó, việc liên tục đánh giá triển vọng tăng trưởng trong năm và điều chỉnh chúng khi những điều kiện cơ bản thay đổi là một điều hợp lý. Ở Trung Quốc, GDP là chỉ tiêu đầu vào – một con số được ấn định từ đầu năm và sau đó sẽ đạt được bằng mọi biện pháp can thiệp cần thiết. Chính vì lí do đó, tại Trung Quốc, GDP không nên được đánh giá và dự báo theo cách mà các quốc gia khác trên thế giới vẫn làm.

Michael Pettis là nghiên cứu viên cấp cao không thường trú tại Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế (CEFIP). Là chuyên gia về kinh tế Trung Quốc, ông Pettis hiện giữ chức giáo sư tài chính tại Viện Quản lý Quang Hoa thuộc Đại học Bắc Kinh, nơi ông chuyên nghiên cứu về thị trường tài chính Trung Quốc.