Những bài học lịch sử đắt giá cho tham vọng lãnh thổ của Trump

Nguồn: Syrus Solo Jin, “With Territory Comes Torment,” Foreign Policy, 08/08/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Lịch sử đã để lại những bài học đắt giá cho tham vọng bành trướng của Trump.

Tháng 12/1899, John Barrett, cựu đại sứ Mỹ tại Xiêm (ngày nay là Thái Lan), người từng dành nhiều tháng đi theo hạm đội Hải quân Mỹ đã đánh bại hạm đội Tây Ban Nha ở Philippines, viết trên tờ New York Times: “Chúng ta hiện đã đủ mạnh để lên tiếng trong thương mại và chính trị của toàn bộ Thái Bình Dương.” Barrett lập luận rằng việc giành được một phần lãnh thổ của Philippines “sẽ khiến chúng ta không chỉ trở thành cường quốc tối cao của Thái Bình Dương, mà còn của toàn thế giới.”

Hơn một thế kỷ sau khi Barrett kêu gọi sự vĩ đại toàn cầu, Donald Trump đã đưa vấn đề thâu tóm lãnh thổ trở lại bàn nghị sự chính sách đối ngoại. Trong nhiệm kỳ đầu, ông bày tỏ ý định mua lại Greenland và suýt chút nữa đã trì hoãn việc ký kết thỏa thuận hòa bình với Taliban để bảo vệ quyền tiếp cận khoáng sản của Mỹ tại Afghanistan. Trong nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã thể hiện mong muốn kiểm soát Kênh đào Panama; liên tục khiến châu Âu lo ngại khi tái đề xuất mua Greenland; kêu gọi Canada trở thành tiểu bang thứ 51; và cố gắng gắn chặt thỏa thuận hòa bình Nga-Ukraine với việc đảm bảo Mỹ có quyền tiếp cận khoáng sản của Ukraine.

Tham vọng về lãnh thổ và tài nguyên của Trump phù hợp với hai ưu tiên của nhiệm kỳ đầu của ông: gia tăng quyền tiếp cận kinh tế cho các công ty Mỹ và củng cố an ninh quốc gia. Tuy nhiên, chính quyền Trump thứ hai còn nhiều lần liên kết các chính sách bành trướng này với việc khôi phục uy tín cho nước Mỹ – từ khẩu hiệu “Làm cho Greenland Vĩ đại Trở lại” đến tuyên bố của Trump rằng “Mỹ sẽ giành lại vị thế xứng đáng, là quốc gia vĩ đại nhất, hùng mạnh nhất, được kính trọng nhất trên Trái Đất, khơi dậy sự kính nể và ngưỡng mộ của toàn thế giới.”

Sự kết hợp giữa lợi ích kinh tế, an ninh quốc gia, và uy tín thông qua thâu tóm lãnh thổ không phải là chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Quá trình Mỹ mở rộng lãnh thổ vào thế kỷ 18 và 19 cũng thường được biện minh bằng những lý do tương tự. Chẳng hạn, Tổng thống Thomas Jefferson lập luận rằng việc mua Louisiana là “có lợi cho hòa bình và an ninh quốc gia,” giúp bổ sung “những vùng lãnh thổ rộng lớn và màu mỡ,” và lan tỏa “phước lành của tự do và quyền tự quản” của Mỹ ra khắp châu lục.

Nhưng cuối cùng, Mỹ đã từ bỏ tham vọng bành trướng lãnh thổ, và những lý do tại sao họ làm vậy cho thấy những vấn đề nan giải mà Trump có thể phải đối mặt nếu ông theo đuổi mong muốn đã tuyên bố là chiếm hữu và duy trì quyền kiểm soát những vùng đất mới. Khác với thế kỷ 18 và 19, sức mạnh toàn cầu của Mỹ trong thế kỷ 20 và 21 tăng lên là bởi vì họ đã từ bỏ lãnh thổ, thay vì sáp nhập chúng.

Việc sáp nhập nhiều vùng lãnh thổ của Mỹ trong thế kỷ 18 và 19, từ Ohio đến Texas, thường được khởi xướng bởi những người định cư và sau đó được chính phủ liên bang ủng hộ.

Một số nhà lập quốc của Mỹ đã khuyên không nên can thiệp vào nước ngoài vì điều này có thể dẫn đến rắc rối, nhưng họ lại xem việc mở rộng lãnh thổ trên khắp lục địa là điều tự nhiên. Ví dụ, Tổng thống John Quincy Adams, người nổi tiếng với lời cảnh báo chống lại việc tham gia vào các cuộc chiến ở nước ngoài, đã viết vào năm 1811 rằng “với tôi, toàn bộ Lục địa Bắc Mỹ dường như đã được Thượng Đế định sẵn là nơi cư trú của một Quốc gia duy nhất.” Việc mở rộng lãnh thổ trên lục địa được mô tả là dân chủ và không gây xung đột, hoặc là nhằm bảo vệ sinh kế của những người định cư đã di chuyển về phía tây, và thường được trích dẫn như một lý do để ca ngợi sự vĩ đại của đất nước.

Xuyên suốt thế kỷ 19, Mỹ đã mở rộng lãnh thổ khắp lục địa và tiến đến Thái Bình Dương. Năm 1898, Philippines trở thành thuộc địa của Mỹ sau khi nước này giành chiến thắng trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ.

Nhưng những người chỉ trích đã cảnh báo rằng việc biến Philippines thành thuộc địa của Mỹ sẽ không dễ dàng. Thứ nhất, quần đảo này có rất ít người Mỹ định cư, và việc chinh phục sẽ đòi hỏi một cuộc can thiệp quân sự quy mô lớn. Dân số của Philippines khi đó lên tới hơn 5 triệu người, cộng thêm phong trào đấu tranh giành độc lập đang diễn ra mạnh mẽ.

Tuy nhiên, cũng giống như những lập luận ủng hộ việc mua Greenland ngày nay, những người Mỹ ủng hộ việc biến Philippines thành thuộc địa khi ấy đã nhấn mạnh các cơ hội kinh tế, giá trị chiến lược, và uy tín mà nơi này mang lại.

Các bài xã luận trên báo chí thảo luận về lượng việc làm sẽ được tạo ra, trong khi các tạp chí thương mại tranh luận về lợi nhuận của khoản đầu tư dài hạn. Thống đốc quân sự đầu tiên của quần đảo, Arthur MacArthur Jr., đã ra làm chứng trước Quốc hội về “giá trị vô giá và không thể diễn tả được của quần đảo, cả về mặt chiến lược lẫn thương mại,” đồng thời lập luận rằng việc Mỹ rút quân sẽ tạo ra một khoảng trống bất ổn. Tổng thống Mỹ tương lai William Taft, người từng là thống đốc Philippines, cũng nhấn mạnh “triển vọng phát triển trong tương lai của ngành công nghiệp và thương mại của quần đảo” như một lý do để duy trì thuộc địa này.

Uy tín đóng vai trò đáng kể trong mong muốn xâm chiếm Philippines của Mỹ. Thập niên 1890 là giai đoạn mà người Mỹ tương đối bất an, với các cuộc khủng hoảng kinh tế, bất bình đẳng thu nhập gia tăng, tham nhũng chính trị, các chuẩn mực xã hội thay đổi, và tâm lý bi quan về tương lai của đất nước.

Tổng thống William McKinley, người mà đảng của ông đã phải đối mặt với cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ đầy khó khăn năm 1898, rất muốn nêu bật Philippines như một ví dụ về những thành tựu của chính quyền ông. Ngay trong đêm Hải quân Mỹ đánh bại lực lượng Tây Ban Nha tại Vịnh Manila, McKinley nói rằng ông đã yêu cầu một người vẽ bản đồ “đưa Philippines vào bản đồ nước Mỹ… và nó sẽ ở đó chừng nào tôi còn là Tổng thống!” Việc sáp nhập lãnh thổ này đã mang lại cho chính quyền một nguồn cung cấp tính chính danh trong thời điểm thiếu các lựa chọn khác.

Dù vậy, cuối cùng, những người chỉ trích đã đúng: Chiếm Philippines không phải việc dễ dàng. Mỹ đã phải điều 125.000 quân đến để khuất phục quần đảo này bằng một cuộc phản công tàn bạo, ước tính gây ra cái chết cho 200.000 dân thường. Binh lính Mỹ, những người phải sống xa nhà và đang mong chờ một chiến thắng nhanh chóng, đã phải chật vật với chiến tranh du kích. Các nhóm đối lập ở Mỹ đã công khai những câu chuyện rùng rợn về các vụ thảm sát thường dân và đốt phá nhà thờ.

Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1902 và Mỹ củng cố quyền cai trị, đã có những bất đồng nội bộ về cái giá để duy trì thuộc địa Philippines. Một số người Mỹ phản đối viễn cảnh hợp nhất cộng đồng không phải người da trắng vào nước Mỹ nếu họ được cấp quyền công dân.

Đến năm 1914, Theodore Roosevelt – lúc đó đã là cựu tổng thống và từng là một người theo chủ nghĩa đế quốc nhiệt thành, người đã kiên quyết bảo vệ việc sáp nhập vĩnh viễn Philippines – lại lập luận rằng Philippines là một gánh nặng chiến lược, gây căng thẳng cho Hải quân Mỹ trong việc bảo vệ hàng ngàn dặm bờ biển cách xa chính quốc.

Khi quyết định phải làm gì với lãnh thổ này, cuối cùng Mỹ đã chọn một giải pháp trung dung: chuyển giao phần lớn nhiệm vụ an ninh cho phía Philippines, đồng thời “Philippines hóa” hầu hết các hoạt động quản lý dân sự, và – để đáp lại các hoạt động kích động mang tính dân tộc chủ nghĩa của giới tinh hoa Philippines – cam kết trao trả độc lập cho quần đảo, điều đã được thực hiện sau Thế chiến thứ II.

Nhưng việc từ bỏ giấc mơ lãnh thổ không chỉ phản ánh xu hướng phi thực dân hóa rộng lớn hơn, mà còn là một tính toán địa chính trị. Đến năm 1946, các nhà hoạch định chính sách Mỹ đã đảm bảo được những lợi ích quan trọng nhất mà Philippines có thể mang lại: một chuỗi các căn cứ quân sự và các thỏa thuận thương mại có lợi. Không cần phải cai trị nhưng vẫn đảm bảo lòng trung thành của Philippines, Mỹ đã tìm ra những cách thức linh hoạt hơn để đạt được điều mình muốn.

Đã có những ngoại lệ, nhưng nhìn chung, chúng ta có thể mô tả chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ đó đến nay là tìm kiếm quyền lực mà không cần lãnh thổ. Các thuộc địa cần phải được quản lý; còn các thỏa thuận căn cứ quân sự với đồng minh thì không.

Xin nói rõ: việc thâu tóm quyền lực thông qua các biện pháp phi lãnh thổ không hề vô hại. Kể từ năm 1945, Mỹ đã gây ra và dung túng bạo lực kinh hoàng thông qua các chiến dịch bí mật, can thiệp quân sự quy mô nhỏ, thay đổi chế độ, hỗ trợ đảo chính, viện trợ quân sự, bán vũ khí, và nhiều hình thức khác.

Tuy nhiên, bằng cách từ bỏ việc sáp nhập lãnh thổ, Mỹ đôi khi đã bảo vệ được lợi ích của mình một cách khéo léo, đồng thời tránh được những cái giá khủng khiếp khi sở hữu thêm nhiều bất động sản trên thế giới. Thay cho các cuộc chinh phạt, các tổng thống đã có thể trích dẫn những nguồn lực khác tạo nên “sự vĩ đại” của nước Mỹ trong các diễn văn nhậm chức và Thông điệp Liên bang, chẳng hạn như tăng trưởng kinh tế trong nước, sự thịnh vượng, hay những thành công ngoại giao. Khi tạm thời gạt sang một bên những vấn đề về chuẩn mực, đạo đức, hay phúc lợi con người, các nhà lãnh đạo Mỹ đã nhiều lần nhận định rằng uy tín tiềm tàng từ việc sáp nhập lãnh thổ không liên quan gì đến việc theo đuổi vị thế siêu cường toàn cầu.

Không phải ngẫu nhiên mà trong thời điểm công chúng bi quan sâu sắc về tương lai của đất nước như hiện nay, chính quyền Trump lại cân nhắc việc mua lại Greenland và Panama.

Việc tô điểm thêm nhiều vùng trên bản đồ thế giới bằng màu sắc của nước Mỹ dường như là một cách đơn giản để khôi phục niềm tự hào dân tộc và uy tín quốc gia cho một chính quyền ưu tiên các giải pháp “thân thiện với truyền thông” – dù đó là video ASMR về các vụ trục xuất, hay các cuộc tấn công tên lửa được phát sóng rầm rộ trên truyền hình cáp – hơn là việc hoạch định chính sách một cách cẩn trọng. Nhưng quá trình để thực sự giành được một vùng lãnh thổ lại không hề đơn giản. Chiếm Greenland là một nguồn uy tín thay thế cho một chính quyền không quan tâm đến việc giải quyết những vấn đề nội bộ khó khăn đang khiến hầu hết người dân Mỹ lo lắng.

Sau cùng thì, tất cả uy tín trên thế giới cũng không thể xóa bỏ những thách thức và rủi ro của việc sáp nhập lãnh thổ mới, như Mỹ đã học được từ Philippines hơn một thế kỷ trước. Nếu Trump có được món quà lãnh thổ mà ông mong muốn, có lẽ ông sẽ bắt đầu ước có một chính sách để hoàn trả nó.

Syrus Solo Jin là học giả về lịch sử quân sự hiện đại tại Đại học New York. Ông chuyên nghiên cứu lịch sử quân sự Mỹ, vai trò của Mỹ trên thế giới và quan hệ Mỹ – Đông Á.