Nỗi sợ đã giết chết chủ nghĩa tự do như thế nào?

Nguồn: Stephen M. Walt, “How Fear Killed Liberalism,” Foreign Policy, 02/09/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Những lo lắng chính trị cứ ngày một chất chồng và thời kỳ lạc quan của công chúng đã chấm dứt.

Các học giả, chuyên gia, và chính trị gia vẫn thường đưa ra những dự đoán sai lầm, và một vài sai lầm trong số đó thực sự nghiêm trọng. Đối với tôi, dự đoán địa chính trị tệ nhất trong 50 năm qua chính là niềm tin sau Chiến tranh Lạnh rằng thế giới chắc chắn sẽ tiến tới một tương lai hòa bình, ngày càng tự do và thịnh vượng. Quan điểm này – được thể hiện qua tuyên bố nổi tiếng của Francis Fukuyama rằng nhân loại đã đạt đến “cáo chung của lịch sử,” nhưng ông không phải người duy nhất – cho rằng nền dân chủ sẽ tiếp tục lan rộng, các rào cản thương mại và đầu tư sẽ tiếp tục được cắt giảm vì lợi ích của tất cả mọi người, chủ nghĩa dân tộc sẽ suy yếu, biên giới sẽ ngày càng trở nên không còn quan trọng, các thể chế toàn cầu sẽ vào cuộc để giải quyết những vấn đề toàn cầu khó khăn nhất, và nguy cơ chiến tranh sẽ chỉ giới hạn ở một số ít các quốc gia bất hảo yếu kém và ngày càng không còn quan trọng với các nhà lãnh đạo vẫn chưa hiểu rõ thông điệp.

Sẽ thật tuyệt vời nếu tất cả những điều đó xảy ra, và cũng dễ hiểu tại sao rất nhiều người thông minh lại bị cuốn hút bởi viễn cảnh hấp dẫn này vào thập niên 1990. Chủ nghĩa cộng sản kiểu Liên Xô đã sụp đổ, chỉ còn Mỹ đơn độc trên đỉnh cao quyền lực, và phần lớn thế giới dường như đang đón nhận công thức tự do. Nền dân chủ lan rộng sang Đông Âu và Mỹ Latinh, toàn cầu hóa diễn ra nhanh chóng, sự tôn trọng nhân quyền ngày càng được ủng hộ, và cả các chuyên gia lẫn chính trị gia đều kỳ vọng Trung Quốc và các quốc gia độc đảng khác cũng dần chuyển sang dân chủ đa đảng. Những người theo chủ nghĩa quốc tế tự do và tân bảo thủ thống trị đội ngũ hoạch định chính sách tại Mỹ, và tất thảy đều cam kết tái thiết thế giới theo hình ảnh của Mỹ và xây dựng một trật tự tự do toàn cầu.

Tua nhanh đến năm 2025. Khi nhìn lại một phần tư thế kỷ qua, rõ ràng những dự báo lạc quan này gần như đã sai hoàn toàn. Trung Quốc ngày càng chuyên chế, và Nga cũng quay trở lại chế độ chuyên chế sau một cuộc thử nghiệm ngắn ngủi với dân chủ bầu cử thực sự. Thật vậy, nền dân chủ đã suy thoái đều đặn trên toàn thế giới trong gần hai thập kỷ qua, bao gồm cả ở Mỹ. Trung Quốc, Nga, và Mỹ giờ đây đang hội tụ, nhưng chính Mỹ mới là bên giống những chế độ chuyên chế tham nhũng hơn là ngược lại. Chính quyền Trump đang mở rộng quyền hành pháp một cách thiếu kiềm chế; nền pháp quyền đang bị xói mòn; Trump đang rút tiền khỏi các trường đại học, công ty luật, và các tập đoàn tư nhân, giống như những gì Tập Cận Bình đã làm ở Trung Quốc; chính quyền cũng tiến hành những cuộc trả thù cá nhân chống lại bất kỳ ai khiến vị tổng thống nhỏ nhen và không bị kiểm soát nổi giận; và quân đội liên bang đang được triển khai tại thủ đô trong một cuộc biểu dương lực lượng chủ yếu nhằm đe dọa dân thường. Toàn cầu hóa đã nhường chỗ cho chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy. Các nhà lãnh đạo phi tự do hiện đang cai trị ở Ấn Độ, Hungary, và Mỹ. Và các tổ chức toàn cầu như Liên Hiệp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới, Liên minh Châu Âu, hay chế độ không phổ biến vũ khí hạt nhân đều yếu hơn so với 30 năm trước.

Tóm lại, sự lạc quan tự do vốn là nền tảng cho chính sách đối ngoại của Mỹ (và châu Âu) hóa ra lại là sai lầm nghiêm trọng. Và rất dễ để chỉ ra các nguyên nhân đã dẫn đến những diễn biến này – sự kiêu ngạo của người Mỹ, tác động xói mòn của “chiến tranh vĩnh cửu,” hậu quả độc hại của mạng xã hội, sự trỗi dậy kinh tế của Trung Quốc, khủng hoảng tài chính năm 2008, việc thiếu trách nhiệm giải trình của giới tinh hoa, sự gia tăng bất bình đẳng, và nhiều hơn nữa – và một số người trong chúng ta thậm chí còn viết sách để giải thích tại sao những nỗ lực mở rộng trật tự thế giới tự do lại thất bại. Tuy nhiên, còn có những động lực sâu xa hơn đang tác động, giúp lý giải vì sao nền chính trị ở nhiều nơi, bao gồm cả Mỹ, lại chuyển sang xu hướng phi tự do. Và điểm chung của tất cả những động lực sâu xa đó là nỗi sợ khi đứng trước một tương lai bất định.

Hãy cùng xem xét các quan ngại của những người không quá giàu có và không có đặc quyền hiện nay.

Vấn đề đầu tiên là bất ổn kinh tế ngày càng gia tăng, có thể xuất phát từ tình trạng bất bình đẳng gia tăng, tham nhũng lan rộng và chủ nghĩa tư bản thân hữu, tác động của trí tuệ nhân tạo và robot lên lực lượng lao động, nạn thất nghiệp ở thanh niên tại nhiều quốc gia (thậm chí trong một số lĩnh vực STEM), năng suất lao động trì trệ ở một số nền kinh tế lớn, dân số già hóa, một vị tổng thống Mỹ không am hiểu về thương mại quốc tế hay kinh tế vĩ mô, một đợt bãi bỏ quy định thị trường tài chính thiếu sáng suốt (liệu có gì có thể sai chứ?), và một thị trường chứng khoán đang cho thấy nhiều dấu hiệu của bong bóng. Nếu bạn chưa phải thành viên của giới siêu giàu, và bạn không hề cảm thấy lo lắng về tương lai kinh tế của mình, thì có lẽ bạn đã không thật sự chú ý.

Vấn đề thứ hai là biến đổi khí hậu, với những tác động ngày càng rõ rệt, mang tính hủy diệt và tốn kém, và nhiều khả năng sẽ trở nên tồi tệ hơn. Trump và thế giới MAGA có thể đang phủ nhận điều này và làm mọi cách để khiến tình hình thêm tồi tệ, nhưng các định luật vật lý và hóa học không hề đọc các bài đăng trên mạng xã hội hay xem Fox News, và hầu hết người dân bình thường đều biết rằng chúng ta đang phải đối mặt với một tương lai nóng hơn, nhiều gió bão hơn, ẩm ướt hơn, và nguy hiểm hơn. Giới trẻ trên khắp thế giới hiểu rằng chúng ta đang gặp phải một vấn đề cực lớn, và đó là một trong những lý do khiến nhiều người trong số họ e ngại việc sinh con.

Tiếp theo là sự trở lại của cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc. Thời kỳ đơn cực đã qua; Trung Quốc, Nga, và Mỹ (và một số nước khác) đang bất đồng, một cuộc chạy đua vũ trang mới đang bắt đầu, và có rất nhiều điểm nóng có thể xảy ra xung đột trực tiếp. Thế chiến III không phải là không thể tránh khỏi, nhưng rủi ro đang leo thang. Nhiều quốc gia có thể sẽ tìm cách sở hữu vũ khí hạt nhân, vốn có thể mang lại ổn định về lâu dài, nhưng sẽ tạo ra động lực cho chiến tranh phòng ngừa trong ngắn hạn, và khi đó chúng ta lại có thêm một lý do khác để lo sợ.

Cũng đừng quên chủ nghĩa khủng bố. Chắc chắn, mối nguy thực sự mà hầu hết mọi người phải đối mặt từ chủ nghĩa khủng bố luôn bị thổi phồng (hoặc, trong một số trường hợp, bị cố tình phóng đại vì mục đích chính trị), nhưng nó vẫn là một vấn đề nghiêm trọng ở một số nơi trên thế giới, và nỗi sợ trước các hành vi bạo lực chính trị ngẫu nhiên vẫn còn phủ bóng đen lên nhận thức của công chúng.

Rồi còn vấn đề nhập cư và người tị nạn, cùng nỗi sợ rằng các quốc gia khác nhau sẽ bị nhấn chìm bởi dòng người nhập cư ồ ạt, và hậu quả là phải gánh chịu một dạng tuyệt chủng văn hóa nào đó. Đây chính là nỗi sợ đằng sau những kiểu hoang tưởng như “thuyết thay thế vĩ đại” (great replacement theory), trụ cột cốt lõi của phong trào dân tộc chủ nghĩa da trắng. Ngay cả những quốc gia đang già hóa dân số và đang rất cần người cũng cực kỳ nhạy cảm với quan ngại này, và các xã hội đa văn hóa như Mỹ hiện đang dựng lên hàng loạt rào cản và trục xuất những cư dân có năng suất sao nhằm quay ngược thời gian. Thay vì hòa nhập vào một thế giới quốc tế khoan dung, nỗi sợ về “kẻ khác” đã kích động một làn sóng phản ứng dữ dội trên toàn thế giới.

Chưa hết, trừ phi bạn đủ khả năng thuê bác sĩ miễn dịch riêng hoặc có một hòn đảo riêng để nghỉ dưỡng, thì có lẽ bạn đang lo lắng về cơn đại dịch tiếp theo. Chúng ta đã trải qua một số đại dịch trong những thập kỷ gần đây – AIDS, SARS, Ebola, và tất nhiên, COVID-19 – và một đại dịch lớn khác rồi cũng sẽ đến (và có thể đến sớm nếu Bộ trưởng Y tế Mỹ Robert F. Kennedy Jr. khăng khăng làm theo ý mình).

Cuối cùng, đừng quên tất cả những mối đe dọa giả tạo mà chúng ta vẫn thường nghe: người chuyển giới, sách trong thư viện, vaccines cứu mạng, vụ bê bối Pizzagate, hay tội phạm ở Washington, D.C. và các thành phố do Đảng Dân chủ nắm giữ. Ngay cả khi những mối nguy này hoàn toàn là tưởng tượng hoặc bị phóng đại quá mức, chúng vẫn góp phần tạo nên cảm giác phổ biến rằng thế giới đang ngập trong những mối nguy mà các hệ thống dân chủ không thể xử lý và rằng điều người dân thực sự cần là một lãnh đạo chuyên chế – bởi vì việc dựa vào một lãnh đạo như vậy đã mang lại hiệu quả rất tốt cho các quốc gia khác.

Thật không may, khi sợ hãi, người ta thường mong đợi các biện pháp cứng rắn, thứ sẽ bảo vệ họ trên hết. Sau vụ tấn công ngày 11/9 của al-Qaeda, người Mỹ không hề nghi ngờ tính đúng đắn của Đạo luật Yêu nước, việc mở rộng giám sát trong nước, hay tính khả thi của việc chiếm đóng nước ngoài, ngay cả khi nước đó chẳng liên quan gì đến vụ tấn công. Và khi nỗi sợ đủ lớn, người ta thường cũng không dành thời gian tìm hiểu sự thật và cân nhắc kỹ lưỡng cách ứng phó. Họ chỉ muốn có ai đó đứng ra chỉ đạo và xử lý mối nguy.

Lý tưởng nhất, điều này sẽ dẫn dắt cử tri lựa chọn những nhà lãnh đạo có năng lực cao, những người sẽ làm việc 24/7 để đưa ra giải pháp hiệu quả cho những thách thức khác nhau đã được nhắc đến trên đây. Tuy nhiên, nỗi sợ lại thường khiến người ta dễ bị dụ dỗ bởi những lời đường mật của các lãnh đạo chuyên chế tương lai, những kẻ đã lão luyện trong việc thể hiện hình ảnh mạnh mẽ và giàu năng lực, bất kể điều đó có xa rời thực tế đến đâu. Những lãnh đạo chuyên chế đầy tham vọng dĩ nhiên biết rõ điều này. Đó là lý do tại sao họ lợi dụng những quan ngại chính đáng và thổi phồng chúng, hoặc bịa đặt những tình huống khẩn cấp hư cấu để biện minh cho nỗ lực củng cố quyền lực và đánh lạc hướng người dân khỏi hậu quả của hành động của họ.

Trong lễ nhậm chức đầu tiên, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt đã có một câu nói nổi tiếng: “Điều duy nhất chúng ta phải sợ chính là nỗi sợ.” Tuy nhiên, điều đó không hoàn toàn đúng; có một số vấn đề thực sự cần được giải quyết ngay lập tức, và bạn hoàn toàn đúng khi lo lắng về chúng. Nhưng việc không nên làm là để nỗi sợ làm tê liệt hoặc che mờ phán đoán của mình. Mối nguy lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt là để nỗi sợ về tương lai cám dỗ chúng ta dựa dẫm vào những nhà lãnh đạo luôn có dấu hiệu làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn, và ham muốn quyền lực cá nhân của họ có thể biến viễn cảnh một thế giới tự do hơn chỉ còn là ký ức mờ nhạt.

Stephen M. Walt là chuyên gia bình luận của Foreign Policy và là giáo sư về quan hệ quốc tế tại Đại học Harvard.