Chiến lược chống Trung Quốc mà Lầu Năm Góc còn thiếu

Nguồn: Seth G. Jones, “The Pentagon’s Missing China Strategy”, Foreign Affairs, 26/09/2025

Biên dịch: Viên Đăng Huy

Vào giữa những năm 2010, các quan chức Lầu Năm Góc đã cảm thấy báo động trước những tiến bộ quân sự mà Trung Quốc và Nga đang đạt được. Cả hai quốc gia này đều đầu tư vào các năng lực tác chiến mạng, không gian và tác chiến điện tử, cũng như vũ khí dẫn đường chính xác và vũ khí tầm xa trên mặt đất. Thứ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Work đặc biệt lo ngại về Trung Quốc, quốc gia mà ông xác định là đang cố gắng đạt được sự cân bằng với Mỹ về công nghệ quân sự. Trung Quốc đã phát triển DF-21D, một tên lửa đạn đạo chống hạm có tầm bắn gần 1.000 dặm, được mệnh danh là “sát thủ tàu sân bay”, gây ra mối đe dọa cho các tàu của Mỹ—bao gồm cả tàu sân bay—ở Thái Bình Dương. Đã đến lúc, Work và những người khác ở Lầu Năm Góc kết luận, phải hình dung ra một cuộc chiến ở Thái Bình Dương có thể sẽ trông như thế nào và xem xét cách Mỹ sẽ giành chiến thắng.

Lấy cảm hứng từ cái gọi là chiến lược bù đắp (offset strategies) mà Mỹ đã phát triển để đối phó với Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh, Work đã đề xuất một “chiến lược bù đắp thứ ba” để chống lại những lợi thế của Trung Quốc ở Thái Bình Dương. Quân đội Mỹ bắt đầu soạn thảo các khái niệm tác chiến mới, chẳng hạn như Tác chiến Hàng hải Phân tán (Distributed Maritime Operations) của Hải quân, bao gồm việc dàn trải lực lượng trên một khu vực rộng lớn và phát triển các loại vũ khí tầm xa. Lầu Năm Góc cũng bắt đầu xác định những loại vũ khí, hệ thống và thiết bị mà họ sẽ cần mua, thúc đẩy các khoản đầu tư mới vào năng lực không gian, cảm biến tiên tiến, và một loạt các công nghệ đầy hứa hẹn, chẳng hạn như thủy lôi tiên tiến. Chiến lược bù đắp thứ ba, theo mô tả của Work, là sự “kết hợp giữa công nghệ, khái niệm tác chiến và cấu trúc tổ chức—những cách khác nhau để tổ chức lực lượng của chúng ta—để duy trì khả năng triển khai sức mạnh chiến đấu vào bất kỳ khu vực nào tại thời điểm và địa điểm do chính chúng ta lựa chọn”.

Nhưng theo nhiều cách, chiến lược bù đắp thứ ba của Work đã đi trước thời đại một thập kỷ. Vào thời điểm đó, Mỹ vẫn là siêu cường đứng đầu. Cả Trung Quốc lẫn Nga đều không sở hữu một lợi thế quân sự đáng kể nào so với Mỹ—nói cách khác, không có nhiều thứ để quân đội Mỹ phải bù đắp. Mặc dù lời kêu gọi hành động của Work đã truyền cảm hứng cho nhiều sáng kiến khác nhau, nhưng nó chưa bao giờ hình thành hoàn chỉnh một cách mạch lạc hoặc khẩn cấp.

Ngày nay, tình hình đã khác biệt nghiêm trọng. Cơ sở công nghiệp quốc phòng của Trung Quốc đang ở trong trạng thái thời chiến, sản xuất phần cứng và phần mềm với tốc độ mà Đô đốc Samuel Paparo, người đứng đầu Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ, gọi là “tốc độ đáng báo động”. Năng lực đóng tàu quân sự và thương mại của Trung Quốc lớn hơn khoảng 230 lần so với Mỹ, và năng lực tên lửa tầm xa của họ đã tăng vọt trong hai thập kỷ qua. Điều này có nghĩa là Trung Quốc đang gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với quân đội Mỹ trong khu vực hai chuỗi đảo bao quanh sườn biển của Bắc Kinh, trong đó chuỗi thứ hai kéo dài về phía nam từ Nhật Bản đến Guam, Quần đảo Bắc Mariana và Palau. Ví dụ, nếu căng thẳng hiện tại về Đài Loan bùng phát thành một cuộc chiến toàn diện, các lực lượng Mỹ từ Nhật Bản đến Guam sẽ dễ bị tổn thương trước các cuộc tấn công của Trung Quốc trước khi họ kịp tham chiến.

Tuy nhiên, giống như Liên Xô trong suốt Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc có những điểm yếu có thể khai thác. Đã đến lúc Mỹ phải nghiêm túc phát triển một chiến lược bù đắp mới. Mặc dù Bắc Kinh đã chiếm vị trí ưu tiên trong chương trình nghị sự của Washington những năm gần đây, Lầu Năm Góc vẫn chưa xây dựng được một khái niệm tác chiến hiện đại tương đương với chiến lược “Tác chiến Không-Lục” mà Mỹ từng dùng để đối phó với Liên Xô tại trung tâm châu Âu vào thập niên 1970. Cho đến nay, Mỹ phần lớn tập trung vào các công nghệ mới nổi, chẳng hạn như hệ thống tự hành và trí tuệ nhân tạo.

Công nghệ rất quan trọng, nhưng nó chưa bao giờ là đủ để giành chiến thắng trong các cuộc chiến. Như Andrew Marshall, người đứng đầu lâu năm của Văn phòng Đánh giá Tình hình thực tế (Office of Net Assessment) thuộc Lầu Năm Góc đã lập luận: “Công nghệ mở đường cho cách mạng, nhưng bản thân cuộc cách mạng chỉ diễn ra khi các khái niệm tác chiến mới phát triển”. Nói cách khác, Mỹ cần phát triển một khái niệm tác chiến chung—một kế hoạch sử dụng lực lượng để tiến hành các chiến dịch quân sự cụ thể—và họ cần thực hiện theo bằng cách thực hiện các khoản đầu tư và mua sắm cần thiết để bù đắp những lợi thế về số lượng và công nghiệp của Bắc Kinh. Nếu không làm như vậy, Mỹ có nguy cơ thua trong một cuộc chiến với Trung Quốc.

Cái nhìn mới

Mỹ đã từng làm điều này trước đây. Trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã thành công trong một số nỗ lực lớn nhằm bù đắp trước những lợi thế của Liên Xô. Nỗ lực đầu tiên là Chính sách Cái nhìn Mới (New Look) của chính quyền Eisenhower, liên quan đến việc chống lại lợi thế số lượng đáng kể của Hồng quân ở trung tâm châu Âu. Vào những năm 1950, Liên Xô có số lượng lực lượng mặt đất ở châu Âu gần gấp ba lần so với Mỹ và các đồng minh, và họ đang xây dựng một cơ sở công nghiệp hùng mạnh.

Nhưng thay vì triển khai và duy trì một đội quân thường trực lớn ở châu Âu, điều có thể làm tê liệt nền kinh tế Mỹ, Tổng thống Dwight D. Eisenhower và chính quyền của ông đã phát triển Cái nhìn Mới: kế hoạch xây dựng một lợi thế hạt nhân áp đảo và lên kế hoạch, trong trường hợp xảy ra chiến tranh, sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật chống lại quân đội Hồng quân, kể cả bên trong Tây Đức. Như đã được mô tả trong tài liệu chính sách của chính quyền NSC 162/2, mà Eisenhower đã phê duyệt vào tháng 10 năm 1953, Mỹ sẽ phát triển khả năng gây ra “thiệt hại trả đũa khủng khiếp bằng sức mạnh tấn công”. Mục tiêu là tăng cường khả năng răn đe và thuyết phục Liên Xô không phát động chiến tranh, nhưng Mỹ vẫn phải chuẩn bị sẵn sàng trong trường hợp xảy ra xung đột.

Chính sách Cái nhìn Mới được hỗ trợ bằng việc mua sắm mới vũ khí hạt nhân và máy bay ném bom tầm xa. Ví dụ, vào năm 1956, Eisenhower đã thúc đẩy Quốc hội thông qua yêu cầu tăng cường sản xuất B-52 từ 17 lên 20 máy bay mỗi tháng, cùng với nguồn vốn bổ sung cho nghiên cứu tên lửa và mở rộng cơ sở vật chất cho B-52. Kết quả đã thành công áp đảo: Liên Xô đã bị răn đe ở trung tâm châu Âu, và đến những năm 1960, Mỹ nắm giữ vị trí dẫn đầu vượt trội so với Liên Xô về tên lửa—bao gồm cả tên lửa hạt nhân.

Tuy nhiên, một thập kỷ sau, Mỹ có nguy cơ mất đi lợi thế răn đe đó do việc cắt giảm quốc phòng của Mỹ và những tiến bộ của Liên Xô. Liên Xô đã đạt đến ngưỡng cân bằng hạt nhân với Mỹ và có lợi thế ba chọi một về năng lực thông thường ở trung tâm châu Âu. Để đáp lại, Bộ trưởng Quốc phòng Harold Brown và Thứ trưởng Quốc phòng về Nghiên cứu và Kỹ thuật William Perry dưới thời Tổng thống Jimmy Carter đã lãnh đạo một chiến lược bù đắp thứ hai.

Brown và Perry nhận ra rằng họ có thể đánh bại lực lượng Liên Xô đang cố gắng xâm lược Tây Âu nếu họ có thể tấn công hiệu quả các lực lượng hậu phương, hoặc những lực lượng tiếp viện cho tiền tuyến, bằng độ chính xác cao. Cái gọi là chiến lược bù đắp thứ hai, bao gồm khái niệm Tác chiến Không-Lục, đã chuyển hướng ưu tiên sang việc trang bị vũ khí tàng hình và có độ chính xác cao, chẳng hạn như máy bay F-117 Nighthawk, đạn chống tăng dẫn đường bằng laser Copperhead, và nhiều loại bom và tên lửa dẫn đường chính xác khác nhau.

Chính quyền Reagan tiếp tục triển khai các nỗ lực này trong suốt thập niên 1980 trong khi Moscow theo dõi với sự lo ngại. Năm 1981, Đại tướng Liên Xô Nikolai Ogarkov và các nhà lãnh đạo Liên Xô khác đã tiến hành một cuộc tập trận lớn, gọi là Zapad-81, để xem lực lượng Liên Xô sẽ đối phó như thế nào với chiến lược mới của Mỹ. Sau đó, Bộ trưởng Quốc phòng Dmitri Ustinov nói rằng cán cân quân sự giữa NATO và Khối Warszawa “hiện tại không có lợi cho chúng ta”.

Chiến lược bù đắp thứ ba

Việc phát triển một chiến lược bù đắp thành công có hai giai đoạn rõ rệt: thứ nhất, xác định một khái niệm tác chiến, hoặc kế hoạch cụ thể, để đánh bại đối thủ; thứ hai, xác định, phát triển và triển khai các loại vũ khí, hệ thống và thiết bị mà khái niệm tác chiến đó yêu cầu. Thực hiện các bước này theo thứ tự sẽ gửi đi một thông điệp rõ ràng và tăng cường khả năng răn đe.

Nếu mục tiêu của Mỹ là ngăn chặn một cuộc xâm lược Đài Loan của Trung Quốc, thì việc hình dung xem điều đó sẽ diễn ra như thế nào là rất hữu ích. Một cuộc chiến gần đại lục Trung Quốc như vậy sẽ là một thử thách lớn đối với quân đội Mỹ vì khả năng Trung Quốc có thể triển khai một số lượng lớn tên lửa, máy bay, tàu và các năng lực khác trong cuộc chiến. Quân đội Trung Quốc (PLA) cũng sẽ gặp khó khăn vì họ sẽ phải di chuyển một lượng lớn binh lính, vũ khí và trang thiết bị thông qua đổ bộ đường biển, tấn công đường không, đổ bộ đường không, hoặc sự kết hợp của các cách này. Những binh lính đầu tiên đổ bộ sẽ phải giành được một chỗ đứng trên lãnh thổ Đài Loan trước khi cho phép các lực lượng PLA tiếp theo đổ vào Đài Loan. Mỹ sẽ cần phải hành động trong vòng vài giờ hoặc vài ngày để ngăn chặn Trung Quốc chiếm lãnh thổ, và họ sẽ cần có khả năng tấn công nhanh chóng vào trung tâm lực lượng xâm lược của PLA, đánh bật họ khỏi bất kỳ lãnh thổ nào họ đã giành được.

Do đó, Mỹ cần tăng cường và mở rộng thế bố trí lực lượng của mình trong khu vực để đáp ứng ngay lập tức với một cuộc xâm lược của Trung Quốc. Ví dụ, Mỹ có thể triển khai thêm máy bay ném bom đến các căn cứ ở Úc, củng cố các hầm trú ẩn cho máy bay tại các địa điểm như Căn cứ Không quân Kadena ở Nhật Bản, thiết lập phòng thủ chủ động cho tên lửa ở Guam, và tích trữ nhiên liệu, phụ tùng, đạn dược và các trang thiết bị khác trên khắp Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương có thể sử dụng được cho một cuộc chiến.

Để Mỹ thực hiện các cuộc tấn công nhanh chóng vào các lực lượng Trung Quốc, họ sẽ phải có khả năng phát hiện tất cả các mục tiêu PLA có giá trị cao trên chiến trường bất cứ lúc nào, tấn công các mục tiêu với số lượng lớn và độ chính xác cao, và tiêu diệt bất kỳ mục tiêu nào có thể bị tấn công. Những mục tiêu như vậy bao gồm tàu tấn công đổ bộ, tàu đổ bộ, trực thăng tấn công đường không, và máy bay chở binh lính, hệ thống vũ khí và phòng không của PLA, cũng như các trung tâm chỉ huy và kiểm soát tác chiến hỗ trợ lực lượng xâm lược. Mỹ sẽ cần tạo ra sức mạnh chiến đấu có thể hoạt động cả bên trong và bên ngoài tầm bắn của hệ thống tấn công của Trung Quốc. Như Đô đốc Paparo đã nhận xét: “Tôi muốn biến Eo biển Đài Loan thành một tử địa không người bằng cách sử dụng một số năng lực đã được phân loại để tôi có thể khiến đối phương khốn khổ cùng cực trong vòng một tháng giúp câu giờ cho chúng ta chuẩn bị mọi thứ còn lại”.

Điều này sẽ đòi hỏi một sự gia tăng lớn trong kho dự trữ của Mỹ về tên lửa tầm xa dẫn đường chính xác có thể tấn công các tàu và máy bay của PLA. Tên lửa chống hạm tầm xa hiệu quả chống lại các mục tiêu PLA, nhưng chúng đắt tiền với hơn 3 triệu USD mỗi quả tên lửa, và Mỹ không có đủ chúng. Mỹ cần tăng cường nghiên cứu, phát triển và sản xuất tên lửa tầm xa—đặc biệt là tên lửa chống hạm để tấn công các tàu mặt nước của PLA—mà có giá rẻ hơn. Mỹ cũng sẽ cần nhiều hệ thống drone tương đối rẻ hơn, đặc biệt là những chiếc không cần đường băng để triển khai.

Tuy nhiên, máy bay có người lái vẫn quan trọng, đặc biệt là máy bay ném bom và máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ năm và thứ sáu. Tầm hoạt động và khả năng tấn công của máy bay ném bom tàng hình như B-21 Raider đặt ra một thách thức đặc biệt đáng gờm đối với Trung Quốc. Những chiếc máy bay này có thể triển khai từ các căn cứ ngoài tầm bắn của tên lửa đạn đạo Trung Quốc, và chúng có thể mang theo bom thông thường và hạt nhân đáng kể để làm suy yếu lực lượng Trung Quốc. Một số máy bay tàng hình thế hệ thứ năm và thứ sáu như F-35 cũng hữu ích vì tốc độ, bộ cảm biến và khả năng tấn công của chúng cho phép chúng triển khai bên trong chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai cho các nhiệm vụ không đối không và không đối đất, cũng như để thu thập và chia sẻ dữ liệu chiến trường giữa các lực lượng mặt đất, không quân và hải quân.

Cuối cùng, Mỹ cần sự kết hợp giữa tàu ngầm tấn công hạt nhân lớn và drone dưới nước giá rẻ. PLA tương đối yếu trong lĩnh vực dưới đáy biển và gặp khó khăn trong việc phát hiện, xác định và theo dõi tàu ngầm Mỹ. Ví dụ, trong nhiều lần mô phỏng chiến tranh của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, tàu ngầm Mỹ đã gây ra sự tàn phá đối với các tàu Trung Quốc, bao gồm các tàu đổ bộ lớn, tàu hộ tống và tàu hậu cần. Mỹ phải dựa vào lợi thế dưới đáy biển này và ưu tiên duy trì nó.

Tập trung vào cuộc chiến

Các năng lực khác cũng quan trọng, chẳng hạn như phần mềm tận dụng trí tuệ nhân tạo thế hệ tiếp theo, cho phép quân đội Mỹ chia sẻ lượng lớn dữ liệu nhanh chóng giữa các lực lượng. Nhưng tương lai của chiến tranh không chỉ là về hệ thống không người lái, trí tuệ nhân tạo và các công nghệ khác. Năng lực quân sự của Mỹ cần phải được dựa trên một chiến lược tác chiến khả thi. Việc phát minh ra công nghệ hoặc là quốc gia đầu tiên sử dụng công nghệ chưa bao giờ đảm bảo một lợi thế trên chiến trường. Các kỹ sư người Anh tại William Foster & Co. đã phát triển và sản xuất xe tăng. Nhưng chính các sĩ quan quân đội Đức, chẳng hạn như Heinz Guderian, đã sử dụng xe tăng với hiệu quả tàn khốc trong các chiến dịch chiến tranh chớp nhoáng trong Thế chiến II.

Cũng có nhiều thứ mà Mỹ sẽ không cần cho một cuộc xung đột tiềm tàng với Trung Quốc, chẳng hạn như số lượng lớn tàu mặt nước và tàu sân bay, những khí tài dễ bị tổn thương và bị phát hiện cao trong chiến tranh. Mỹ cũng vẫn đang đầu tư vào hệ thống mặt đất, chẳng hạn như xe tăng, những thứ sẽ không cần thiết cho cuộc chiến này. Một chiến lược bù đắp tập trung vào Trung Quốc, tất nhiên, không loại trừ việc chuẩn bị cho các tình huống bất ngờ ở những nơi khác, chẳng hạn như chống lại Nga ở đông Âu, Iran ở Trung Đông hoặc Triều Tiên trên Bán đảo Triều Tiên. Nhưng điều đó có nghĩa là Mỹ cần ưu tiên đánh bại và răn đe Trung Quốc, giống như cách Mỹ đã tập trung vào Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh.

SETH G. JONES là Chủ tịch Khoa Quốc phòng và An ninh tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), đồng thời là tác giả của cuốn sách The American Edge: The Military Tech Nexus and the Sources of Great Power Dominance.