Cuộc khủng hoảng của những phụ nữ làm việc trong ngành may mặc

Nguồn: Claire Cozens, “The Crisis for the Women Who Make Your Clothes,” Foreign Policy, 30/09/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Thuế quan của Trump đang có tác động lan tỏa lớn đến lực lượng lao động nữ trong ngành thời trang.

Khi Maleshoane Rakojoana bị cho nghỉ việc tạm thời tại một nhà máy may mặc ở Lesotho gần ba tháng trước, cuộc sống của cả gia đình cô đã bị đảo lộn. Không còn khả năng chi trả tiền thuê nhà, họ buộc phải rời thủ đô Maseru và chuyển đến sống cùng họ hàng ở cách xa trường học của các con cô hàng dặm. Vì Rakojoana là trụ cột kinh tế của gia đình, nên việc cô mất thu nhập đã tạo ra một làn sóng nghèo đói lan rộng qua nhiều thế hệ.

“Tôi là trụ cột gia đình. Tôi nuôi mẹ, chị gái, các con của chị và cả con tôi nữa. Tôi trả tiền thuê nhà, mua đồ tạp hóa, đồ dùng học tập cho các con,” cô nói. “Tôi đã dành một tuần để tìm việc khác, nhưng vì lúc đó có quá nhiều người tìm việc nên tôi không có cơ hội. Không còn lựa chọn nào khác – chúng tôi chỉ còn cách nhận bất cứ công việc nào có thể.”

Câu chuyện này đang được lặp đi lặp lại hàng ngàn lần ở Lesotho, quốc gia nhỏ bé không giáp biển ở miền nam châu Phi, nơi đã bị cuốn vào cuộc chiến thuế quan của Tổng thống Mỹ Donald Trump. Quốc gia mà Trump nói rằng “chưa ai từng nghe đến” chắc chắn đã từng nghe đến ông: Trước khi bất kỳ đợt tăng thuế nào có hiệu lực, Lesotho đã tuyên bố tình trạng thảm họa quốc gia khi phải đối mặt với hai cuộc khủng hoảng song song: cắt giảm viện trợ lớn từ Mỹ và điều mà viện chính sách ODI Global mô tả là “cú sốc chuỗi cung ứng mang tính giới” trong ngành may mặc.

Cuối tháng 6, công ty của Rakojoana, chuyên sản xuất áo và quần legging cho Walmart và JCPenney, đã cho toàn bộ 900 nhân viên – phần lớn là phụ nữ –nghỉ việc do đơn hàng sụt giảm nghiêm trọng trước nguy cơ bị Mỹ áp thuế 50%. Công ty chỉ hỗ trợ cho cô 800 loti (khoảng 50 đô la) mỗi tháng, bằng khoảng một phần ba mức lương khi cô còn làm việc.

Kể từ đó đến nay, chính phủ Lesotho đã xoay sở để đàm phán mức thuế quan giảm đáng kể là 15%, nhưng vì quá nhiều đơn hàng đã mất nên thiệt hại rất lớn.

Tác động lên ngành may mặc của Lesotho là rất đáng kể vì nước này chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ. Họ từng là một trong những nước hưởng lợi nhiều nhất từ Đạo luật Tăng trưởng và Cơ hội Châu Phi của Mỹ, trong đó cho phép các quốc gia đủ điều kiện ở khu vực châu Phi hạ Sahara được tiếp cận ưu đãi với thị trường Mỹ. Tthỏa thuận thương mại này giúp cải thiện đáng kể tình hình kinh tế của Lesotho, nhưng nó đã hết hạn vào ngày 30/9, và Washington vẫn chưa thể hiện dấu hiệu nào cho thấy nó sẽ được gia hạn.

May mặc là ngành sử dụng lao động tư nhân lớn nhất Lesotho, và giờ đây, toàn bộ các nhà máy đã ngừng hoạt động mà chưa rõ khi nào sẽ mở lại, hoặc thậm chí đủ khả năng mở lại hay không. Theo Liên đoàn Công nhân Dệt may và Đồng minh Quốc gia, tổ chức đại diện cho công nhân may mặc, tổng cộng khoảng 9.000 phụ nữ ở Lesotho đã bị sa thải hoặc phải chuyển sang làm việc bán thời gian.

Lesotho bị ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng. Nhưng trên khắp châu Phi và châu Á, những phụ nữ từng có cuộc sống thay đổi nhờ nguồn thu nhập từ ngành sản xuất hàng may mặc cũng đang bị ảnh hưởng bởi chính sách thuế quan của Trump. Tác động này không chỉ dừng lại ở cá nhân họ, bởi nhiều người còn hỗ trợ nhiều thế hệ trong gia đình họ.

Prachi Agarwal, nghiên cứu viên của ODI Global, cho biết: “Những phụ nữ này thường là trụ cột kinh tế của gia đình, và nếu họ mất việc, điều đó đồng nghĩa với việc trẻ em sẽ phải nghỉ học. Điều này cũng có thể dẫn đến tình trạng mất an ninh lương thực gia tăng, hoặc không được tiếp cận đủ số bữa ăn cần thiết mỗi ngày, và giảm khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe.”

Chúng tôi đã trò chuyện với phụ nữ ở Lesotho, Bangladesh, và Campuchia để cố gắng xác định quy mô của cuộc khủng hoảng, vốn vẫn đang diễn ra trong lúc các chính phủ cố gắng đàm phán thỏa thuận còn các nhà bán lẻ quần áo phản ứng với sự bất ổn bằng cách đóng băng hoặc hủy đơn đặt hàng.

Công nhân may mặc đang may quần áo tại bàn làm việc của họ trong một nhà máy ở Tongi, ngoại ô Dhaka, Bangladesh, vào ngày 06/07. © Munir Uz Zaman/AFP qua Getty Images

Asma Begum đã làm việc tại một nhà máy ở thủ đô Dhaka của Bangladesh trong 15 năm trước khi đột ngột bị sa thải do đơn hàng sụt giảm. Cô may mắn tìm được việc làm tại một nhà máy khác hai tháng trước, nhưng dù có nhiều năm kinh nghiệm, cô vẫn phải chấp nhận mức lương khởi điểm khoảng 115 đô la mỗi tháng chưa tính làm thêm giờ – thấp hơn đáng kể so với mức lương lên tới 240 đô la (có làm thêm giờ) mà cô từng kiếm được trước đây.

Begum, 36 tuổi, cho biết các nhà máy thường sa thải những công nhân lớn tuổi, giàu kinh nghiệm vì thuê người trẻ rẻ hơn. Ban đầu, cô và chồng chuyển đến Dhaka từ ngôi làng quê hương ở phía bắc đất nước để tìm việc làm vì họ cần trả các khoản vay để trang trải chi phí điều trị y tế khi con trai nhỏ của họ mắc bệnh. Ban đầu, chồng cô kiếm sống bằng nghề lái xe kéo hoặc làm công nhật tại các công trường xây dựng. Nhưng anh ấy đã không thể làm việc suốt nhiều năm do chấn thương cột sống khiến anh phải nằm liệt giường.

Là trụ cột gia đình, Begum tự hào vì đã nuôi được hai con ăn học đến hết cấp hai. Nhưng số tiền làm thêm giờ mà cô từng phụ thuộc vào giờ đây trở nên khan hiếm, và cô bắt đầu lo lắng cho tương lai.

“Ở Bangladesh, ngành may mặc sử dụng một lượng lớn phụ nữ, nhiều hơn bất kỳ ngành nghề nào khác. Vì vậy, khi các nhà máy may mặc đóng cửa, chính những phụ nữ này là những người chịu thiệt hại nặng nề nhất,” cô nói.

“Nhiều nhà máy may mặc đã đóng cửa, và chủ sở hữu hoặc không bao giờ xuất hiện hoặc đã bỏ trốn mà không trả lương. Công nhân của các nhà máy này đang chật vật tìm việc làm. Họ đang tích cực tìm kiếm, nhưng vì không có đơn hàng mới từ khách hàng nên các công ty không muốn tuyển dụng.”

Bangladesh, quốc gia xuất khẩu lượng hàng may mặc trị giá hơn 7 tỷ đô la sang Mỹ mỗi năm, theo dữ liệu của chính phủ Mỹ, ban đầu bị đe dọa áp thuế 35%, nhưng đã đàm phán giảm xuống còn 20% bằng cách hứa sẽ nhập khẩu nhiều hơn từ Mỹ để cân bằng cán cân thương mại. Là một trong những nhà cung cấp hàng may mặc chính của châu Âu, Bangladesh ít phụ thuộc vào thị trường Mỹ hơn Lesotho, nhưng theo một báo cáo tóm tắt gần đây của nhóm vận động Swedwatch, nhiều công nhân phải nhận mức lương dưới mức đủ sống ngay từ trước cú sốc thuế mới nhất.

Trong ba thập kỷ qua, ngành may mặc đã thay đổi triển vọng kinh tế của phụ nữ Bangladesh, một trong những quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất khu vực. Ngành này sử dụng hơn 4 triệu lao động, chủ yếu là phụ nữ. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi rất mong manh vì phụ thuộc quá nhiều vào một ngành.

“Nếu công việc này kết thúc và tôi không tìm được việc mới, chúng tôi sẽ phải trở về làng,” Begum nói. “Hầu hết phụ nữ trong vùng tôi sống ở Dhaka, và khoảng 95% trong số họ làm việc trong ngành may mặc. Không có cơ hội việc làm nào cho họ ở quê nhà.”

Các phụ nữ ở Lesotho, Bangladesh, và Campuchia đều cho biết họ không có lựa chọn việc làm thực tế nào khác. Và đó là điều mà hầu hết các chuyên gia phát triển lo ngại, đặc biệt trong bối cảnh cắt giảm viện trợ toàn cầu.

Rola Abimourched, nhà nghiên cứu về bình đẳng giới tại Worker Rights Consortium, một tổ chức độc lập về quyền lao động, cho biết nếu những công việc này biến mất, “người lao động sẽ phải chật vật chi trả cho những nhu cầu cơ bản như thực phẩm, học phí, và chăm sóc sức khỏe.”

Hong Seak ngồi trước một nhà máy may mặc ở tỉnh Kampong Chnang, Campuchia, vào đầu năm nay. © Sineat Yon/Fuller Project

Người lao động ở Campuchia được hưởng một số bảo vệ vì công đoàn công nhân may mặc đã đàm phán mức lương tối thiểu hàng tháng là 208 đô la. Tuy nhiên, Hong Seak, một bà mẹ đơn thân ngoài 40 tuổi có một con trai, cho biết sản lượng mục tiêu ngày càng cao đồng nghĩa rằng công việc sẽ cực kỳ vất vả. Thu nhập từ việc làm công nhân may của cô đủ để nuôi sống cả gia đình, bao gồm cả người cha già và hai người em.

“Chúng tôi phải sản xuất nhiều hơn mỗi ngày. Tôi là thợ may, và nếu hôm nay tôi may được 100 sản phẩm, thì mục tiêu ngày mai của tôi sẽ là 105 sản phẩm,” cô nói. “Nếu không vì phải trả nợ và vì cả gia đình đang trông cậy vào tôi, thì tôi đã nghỉ việc lâu rồi.”

Các lãnh đạo công đoàn cho biết lời đe dọa áp thuế 49% đối với Campuchia của Washington vào tháng 4 khiến người mua hàng may mặc vô cùng lo sợ vào đầu năm nay, nhưng các đơn đặt hàng bắt đầu quay trở lại sau khi nước này đàm phán giảm mức thuế xuống còn 19%.

Tuy nhiên, họ cũng bày tỏ lo ngại về làn sóng công nhân Campuchia trở về từ Thái Lan vào tháng trước sau vụ đụng độ chết người ở biên giới, ngay vào thời điểm việc làm trong nước đang khan hiếm.

Công nhân dệt may trở về nhà sau một ngày làm việc bên ngoài một nhà máy may mặc ở tỉnh Kampong Chnang vào đầu năm nay. © Sineat Yon/Fuller Project

Trong quá khứ, khi các quốc gia gánh chịu cú sốc thương mại, lao động nữ thường vượt biên giới và tìm được công việc tương tự ở các nước láng giềng. Nhưng họ khó tìm việc làm hơn khi cú sốc thương mại mang tính toàn cầu. Các nền kinh tế lớn trong khu vực như Ấn Độ, Trung Quốc, và Nam Phi đều phải đối mặt với mức thuế quan vào Mỹ thậm chí còn cao hơn nhiều nước láng giềng nhỏ. Và tâm lý bài xích người nhập cư cũng đang gia tăng. Ví dụ, Ấn Độ đã cưỡng bức người nhập cư trở về Bangladesh suốt nhiều năm, trong khi người lao động nhập cư ở một số vùng của Nam Phi gần đây đã bị quấy rối khi tìm kiếm điều trị y tế.

Vậy có thể có những giải pháp nào? Agarwal tại ODI Global tin rằng có những bài học cần rút ra từ đại dịch COVID-19, khi các nhà máy trên khắp thế giới phải đóng cửa và các ngân hàng phát triển vào cuộc để hỗ trợ.

“Vì chúng ta đang nói về tác động mang tính giới, nên tôi nghĩ các quốc gia bị ảnh hưởng có thể áp dụng một chiến lược ứng phó cũng có tính giới, theo đó họ sẽ cung cấp các chương trình và trợ cấp thất nghiệp cho phụ nữ mất việc làm. Và điều này về cơ bản có nghĩa là liên kết với các ngân hàng phát triển đủ khả năng hỗ trợ,” bà nói. “Chỉ riêng phản ứng của các quốc gia, sự hoảng loạn mà nó tạo ra, đã cho thấy tác động sẽ rất lớn.”

Agarwal bổ sung “Chính quyền Mỹ đang đưa ra tất cả những quyết định này khi ngồi trong văn phòng và không nhận ra rằng có hàng nghìn sinh mạng đang gặp nguy hiểm.”

Báo cáo bổ sung bởi Sharif Khiam Ahmed ở Dhaka và Sineat Yon.

Claire Cozens là một nhà báo quốc tế và là cựu biên tập viên của Fuller Project.