Hướng tới một ‘thỏa thuận đình chiến’ ở Đài Loan

Nguồn: Stephen Wertheim, “Toward a Taiwan Truce,Foreign Affairs, 28/10/2025

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Trump và Tập có thể rút lui khỏi bờ vực chiến tranh như thế nào?

Khi Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gặp nhau vào thứ Năm ngày 30/10, họ nên hành động mạnh mẽ để giảm thiểu nguy cơ chiến tranh tại Đài Loan. Nguy cơ này đã lên đến mức báo động trong những năm gần đây. Trung Quốc, bên nguy hiểm nhất, đã quân sự hóa Eo biển Đài Loan, tiến hành cả các cuộc tập trận quân sự quy mô lớn mô phỏng các cuộc phong tỏa hòn đảo lẫn các cuộc xâm nhập hàng ngày qua đường trung tuyến. Về phần mình, Đài Loan, dưới thời Tổng thống Lại Thanh Đức, đã khẳng định chủ quyền theo những cách thức mới và gây bất ổn, tuyên bố rằng hệ thống chính trị của mình là độc lập và đang bị đại lục đe dọa. Trong khi đó, Mỹ ngày càng thiên vị trong việc ủng hộ Đài Loan, làm xói mòn những thỏa thuận trước đây đã đạt được với Bắc Kinh về các vấn đề xuyên eo biển.

Việc căng thẳng leo thang và dẫn đến một cuộc chiến thảm khốc giờ đây là điều hoàn toàn có thể tưởng tượng được. Để giải quyết mối nguy này, Washington đã tìm cách tăng cường răn đe quân sự. Việc cải thiện khả năng phòng thủ của Đài Loan và vị thế khu vực của Mỹ là điều hợp lý, nhưng chỉ riêng điều này thôi sẽ không giúp khôi phục sự ổn định ở eo biển. Trên thực tế, việc tăng cường hoạt động quân sự mà không có trấn an ngoại giao dễ bị giới lãnh đạo Trung Quốc diễn giải là bằng chứng cho ý định thù địch. Cách tốt nhất để đảo ngược tình thế và đạt được sự giảm thiểu đáng kể các hoạt động quân sự xung quanh Đài Loan là cả Washington và Bắc Kinh đều phải thể hiện sự tôn trọng hơn đối với lập trường cốt lõi của nhau.

Trump và Tập đang có cơ hội để làm điều đó. Tại cuộc gặp của hai người, họ nên khởi động các cuộc đàm phán cấp chuyên viên để soạn thảo một thông cáo chung mới giữa Mỹ và Trung Quốc, hoặc nếu không được, thì là một cặp tuyên bố song song. Ngôn từ cần được đàm phán cẩn thận, nhưng thỏa thuận cốt lõi nên đơn giản: Washington sẽ không ủng hộ Đài Loan độc lập hay loại trừ khả năng thống nhất hòa bình với đại lục, và đổi lại, Bắc Kinh sẽ tránh sử dụng vũ lực và giảm bớt các hành vi đe dọa quân sự đối với Đài Loan. Nếu được thực hiện đúng đắn, những lời trấn an này sẽ cải thiện triển vọng duy trì quyền tự trị của Đài Loan, đồng thời kiềm chế giới lãnh đạo Đài Loan đưa ra những tuyên bố chính trị làm đảo lộn hiện trạng.

CĂNG THẲNG LEO THANG

Dưới thời Tập, Trung Quốc đã gia tăng áp lực lên Đài Loan trên mọi lĩnh vực – quân sự, kinh tế, ngoại giao, và thông tin – khiến một số nhà quan sát lo ngại rằng Bắc Kinh có thể xâm lược hoặc phong tỏa hòn đảo này ngay từ năm 2027. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu Trung Quốc có quyết tâm thực hiện một cuộc tấn công mạo hiểm vào bất kỳ thời điểm nào hay không. Điều rõ ràng là Trung Quốc có thể sẽ dùng đến vũ lực nếu họ kết luận rằng Đài Loan đang chuẩn bị trở nên độc lập hoặc bị chia cắt vĩnh viễn khỏi đại lục. Mỹ và Đài Loan vẫn có lợi ích rất lớn trong việc ngăn Trung Quốc đi đến kết luận đó.

Thật không may, Washington và Đài Bắc đã đi theo hướng ngược lại, quay lưng với những cam kết lâu dài được thiết kế để ngăn ngừa xung đột. Trong 5 năm qua, Mỹ đã làm suy yếu các khía cạnh của chính sách “Một Trung Quốc,” trong đó Washington công nhận chính phủ Bắc Kinh là đại diện hợp pháp duy nhất của Trung Quốc, đồng thời thừa nhận và không thách thức lập trường của Bắc Kinh rằng có một Trung Quốc mà Đài Loan là một phần. Trong năm cuối cùng của nhiệm kỳ, chính quyền Trump đầu tiên đã bãi bỏ các hạn chế về liên lạc giữa các cơ quan hành pháp với các đối tác Đài Loan và cử Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Alex Azar đến Đài Bắc, chuyến thăm cấp cao nhất của một quan chức nội các trong nhiều thập kỷ. Những động thái này đã làm giảm cam kết của Mỹ – được nêu rõ trong các thông cáo chung Mỹ-Trung được ban hành vào các năm 1972, 1979, và 1982 – từ bỏ quan hệ chính thức với Đài Loan. (Chính quyền Biden đã khôi phục các hướng dẫn liên lạc trước đó ở hình thức nới lỏng hơn.)

Sau đó, với tư cách là tổng thống, Joe Biden đã hai lần nói rằng người dân Đài Loan nên quyết định xem họ có nên độc lập hay không. Ngoài ra, ông đã bốn lần tuyên bố sẽ sử dụng vũ lực quân sự để bảo vệ hòn đảo này trước một cuộc tấn công của Trung Quốc, trái ngược với sự mơ hồ thường thấy mà những người tiền nhiệm của ông vẫn duy trì. Dù Nhà Trắng liên tục khẳng định rằng chính sách của Mỹ không thay đổi, nhưng Biden đã làm suy yếu những nỗ lực của Mỹ nhằm ngăn chặn Đài Loan đơn phương tiến tới độc lập. Căng thẳng lên đến đỉnh điểm vào tháng 08/2022, khi Nancy Pelosi trở thành chủ tịch Hạ viện đương nhiệm đầu tiên sau một phần tư thế kỷ đến thăm hòn đảo, nơi bà đã gặp Tổng thống Thái Anh Văn. Đúng như dự đoán, chuyến thăm đã phản tác dụng. Bắc Kinh nhanh chóng tăng cường các cuộc tập trận quân sự xung quanh Đài Loan và bắt đầu điều ngày càng nhiều máy bay và tàu chiến qua đường trung tuyến của eo biển.

Sau sự kiện đó, chính quyền Biden đã cố gắng ổn định quan hệ bằng cách tái khẳng định cam kết của Washington đối với chính sách “một Trung Quốc” và đưa ra những trấn an riêng tư, bằng lời với Tập. Và kể từ khi trở lại nắm quyền, Trump liên tục từ chối nêu rõ cách Mỹ sẽ phản ứng trước một cuộc tấn công vào Đài Loan. Tuy nhiên, thiệt hại đã xảy ra: cũng dễ hiểu khi Bắc Kinh lo ngại rằng Mỹ có thể tiếp tục làm suy yếu các thỏa thuận song phương, dù là dưới thời Trump hay người kế nhiệm.

Trong khi đó, Đài Bắc cũng chẳng giúp ích gì. Kể từ khi trở thành Tổng thống Đài Loan vào tháng 5 năm ngoái, Lại đã khẳng định Đài Loan tách biệt hoàn toàn khỏi đại lục và bịt miệng mọi nỗ lực của người tiền nhiệm nhằm trấn an Bắc Kinh. Dù Thái Anh Văn xuất thân từ Đảng Dân Tiến ủng hộ chủ quyền, bà cũng khẳng định sẽ tiến hành các vấn đề xuyên eo biển theo đúng Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc và Đạo luật năm 1992 về điều chỉnh quan hệ với đại lục, hai văn bản xem Trung Quốc và Đài Loan là một phần của một thực thể duy nhất. Ngược lại, Lại tránh ám chỉ rằng có một Trung Quốc bao gồm cả Đài Loan. Ông xem Trung Quốc là một mối đe dọa rõ ràng không chỉ nhằm “sáp nhập Đài Loan” mà còn nhằm đạt được “bá quyền quốc tế.” Tháng 3 năm ngoái, ông đã chỉ định Trung Quốc là “thế lực thù địch bên ngoài/nước ngoài” khi ông đưa ra một loạt các biện pháp nhằm chống lại sự xâm nhập của Trung Quốc vào Đài Loan, bao gồm cả việc khôi phục các tòa án quân sự để xét xử các vụ án gián điệp chống lại quân nhân đang tại ngũ.

Những động thái của Lại đã dẫn đến kết quả tương tự như chuyến thăm của Pelosi. Ngay sau ba bài phát biểu quan trọng trong đó ông mô tả hệ thống chính trị ở Đài Bắc và Bắc Kinh là “không phụ thuộc lẫn nhau,” quân đội Trung Quốc đã tiến hành các cuộc tập trận theo kiểu phong tỏa bao vây Đài Loan. Ngược lại, sau khi Lại sử dụng ngôn ngữ ít thù địch hơn với Trung Quốc trong các bài phát biểu vào tháng 5 và tháng 10 năm nay, Trung Quốc đã quyết định từ chối tổ chức các cuộc tập trận quân sự quy mô lớn. Trong ngắn hạn, những tuyên bố táo bạo của Đài Bắc rõ ràng đã thúc đẩy hành động cưỡng ép mạnh mẽ hơn từ Trung Quốc. Trong dài hạn, chúng làm tăng khả năng Bắc Kinh có thể quyết định thống nhất với Đài Loan bằng vũ lực.

Lại có lẽ tin rằng dù thế nào đi nữa, Trung Quốc cũng sẽ nhắm vào Đài Loan, và ông có động lực chính trị trong nước để duy trì lập trường cứng rắn trong các vấn đề xuyên eo biển. Dù những động thái nhượng bộ gần đây của ông rất đáng khích lệ, nhưng nhiều khả năng ông sẽ duy trì sự linh hoạt nếu Mỹ chịu củng cố mong muốn hạ nhiệt căng thẳng. Do đó, để giảm thiểu nguy cơ chiến tranh, Washington không chỉ phải xoa dịu nỗi lo ngại của Bắc Kinh về ý định của Mỹ, mà còn phải kiềm chế Đài Bắc không để leo thang thêm nữa.

SỰ ỔN ĐỊNH ĐƯỢC ĐẢM BẢO LẪN NHAU

May mắn thay, Mỹ có thể đạt được cả hai mục tiêu này cùng một lúc – đồng thời vẫn đạt được những nhượng bộ từ Trung Quốc. Chính quyền Trump nên tìm cách trao đổi những lời trấn an công khai với Bắc Kinh để mỗi bên tránh xa những lằn ranh đỏ của bên kia. Lý tưởng nhất là Mỹ và Trung Quốc sẽ làm như vậy trong một thông cáo chung mới, bổ sung vào ba tuyên bố ban đầu vốn đã tạo thành nền tảng cho quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Một thông cáo chung mới sẽ tạo ra những cam kết chắc chắn, không dễ dàng bị đảo ngược, dù văn bản này có thể cực kỳ khó đàm phán, đặc biệt nếu nó đề cập đến các khía cạnh rộng hơn của một quan hệ song phương đang căng thẳng. Ngay cả khi Trump và Tập cuối cùng chỉ đưa ra các tuyên bố riêng lẻ song song, thì đó cũng sẽ là một giải pháp dự phòng đáng giá; điều quan trọng nhất là phải giải quyết một cách thực chất quan ngại cốt lõi của mỗi bên.

Washington nên đưa ra một số tuyên bố quan trọng. Thứ nhất, cần khẳng định rằng Mỹ không và sẽ không ủng hộ nền độc lập của Đài Loan, và sẽ tiếp tục phản đối bất kỳ sự thay đổi đơn phương nào đối với hiện trạng của cả hai bên, dù là hướng tới độc lập hay thống nhất. Điểm mới lạ nằm ở việc sử dụng thì tương lai; không giống như các công thức trước đây, công thức mới bổ sung thêm “sẽ không ủng hộ,” qua đó kéo dài cam kết của Mỹ vô thời hạn và ngăn cản Đài Bắc tuyên bố độc lập với hy vọng rằng Washington sẽ chấp nhận một sự đã rồi. Trong tương lai, bất kỳ tổng thống Mỹ nào muốn ủng hộ nền độc lập của Đài Loan, hoặc thậm chí áp dụng thái độ cho phép mà Biden đôi khi thể hiện, sẽ rơi vào mâu thuẫn với một cam kết rõ ràng của Mỹ. Bắc Kinh sẽ cảm thấy nhẹ nhõm khi Mỹ không còn mơ hồ, và trên thực tế còn củng cố thái độ không ủng hộ Đài Loan giành độc lập. Và Đài Bắc sẽ nhận được cảnh báo rằng bất kỳ nỗ lực nào nhằm thúc đẩy độc lập sẽ chỉ đẩy Mỹ ra xa.

Đồng thời, Mỹ sẽ không phải nhượng bộ nhiều nếu đưa ra một lời đảm bảo hướng đến tương lai. Giống như các yếu tố khác của chính sách “Một Trung Quốc,” điều kiện ngầm của việc không ủng hộ độc lập vẫn là Trung Quốc không dùng vũ lực. Hơn nữa, Mỹ không cần phải đi xa đến mức phản đối Đài Loan độc lập một cách công khai, như những gì mà tờ Wall Street Journal đưa tin rằng Tập đang tìm kiếm từ Trump. Phản đối độc lập vượt xa việc không ủng hộ nó, và sẽ loại trừ khả năng, dù khó xảy ra, rằng một ngày nào đó cả hai bên có thể tách rời trong hòa bình. Thay vào đó, Mỹ nên tiếp tục không đưa ra lập trường cụ thể về kết quả cuối cùng của những bất đồng giữa hai bờ eo biển, và chỉ nhấn mạnh vào tiến trình hòa bình.

Để ngăn Đài Loan theo đuổi chính sách ly khai vĩnh viễn khỏi Trung Quốc mà không tuyên bố độc lập, Mỹ nên đưa ra lời trấn an thứ hai: Mỹ có lợi ích lâu dài đối với hòa bình và ổn định xuyên eo biển, đồng thời hoan nghênh bất kỳ giải pháp nào để giải quyết các bất đồng xuyên eo biển, dù là thống nhất hay bất kỳ kết quả nào khác, miễn là giải pháp đó được thực hiện bằng biện pháp hòa bình, không cưỡng ép, và theo cách thức được người dân cả hai bên chấp nhận. Quan trọng hơn, lần đầu tiên trong một tuyên bố chính thức cấp cao, Mỹ sẽ nêu rõ thống nhất trong hòa bình là một trong những kết quả mà họ chấp nhận.

Sự thay đổi này sẽ xoa dịu quan ngại của Bắc Kinh rằng Mỹ đang tìm cách duy trì quyền tự trị vĩnh viễn của Đài Loan và khuyến khích Đài Bắc thực hiện mọi bước đi hướng tới việc ly khai hoàn toàn, ngoại trừ việc tuyên bố độc lập. Mặt khác, lời trấn an này sẽ khuyến khích Đài Bắc tránh những tuyên bố vô căn cứ về việc ly khai khỏi đại lục. Các quan chức Mỹ có thể củng cố thông điệp này bằng cách bày tỏ sự ủng hộ đối thoại xuyên eo biển, như chính quyền Biden đã làm vào tháng 01/2024, và bằng cách kín đáo đề xuất rằng Lại Thanh Đức, giống như Thái Anh Văn, nên cam kết xử lý vấn đề theo Hiến pháp Trung Hoa Dân Quốc và Đạo luật Đài Loan năm 1992.

Tuy nhiên, lời trấn an mới này chỉ làm thay đổi ngôn từ, còn lập trường cơ bản của Mỹ, hoan nghênh bất kỳ giải pháp hòa bình nào, vẫn không thay đổi. Theo đó, Trump nên từ chối yêu cầu của Tập về việc ủng hộ “thống nhất trong hòa bình.” Washington không nên chỉ ủng hộ một kết quả cụ thể duy nhất, và thuật ngữ “thống nhất” sẽ ngầm tán thành yêu sách pháp lý và lịch sử của Bắc Kinh đối với Đài Loan. Việc chấp nhận lập trường của Trung Quốc theo cách này sẽ là một sai lầm lớn, làm suy yếu quyết tâm của Đài Loan trong việc chống lại sự xâm lược và cưỡng ép của Trung Quốc.

Đổi lại, Bắc Kinh nên đưa ra các biện pháp có tầm quan trọng tương đương. Dựa trên tuyên bố của Tập với Biden năm 2023 rằng ông không đặt ra thời hạn cho việc xâm lược Đài Loan, Trung Quốc nên công khai tuyên bố rằng họ không hề có hạn chót để thống nhất với Đài Loan và sẽ nỗ lực hết sức để theo đuổi việc thống nhất bằng các biện pháp hòa bình. Đây sẽ là tuyên bố chính thức, công khai đầu tiên rằng Bắc Kinh không có thời hạn cụ thể nào để giải quyết vấn đề Đài Loan.

Cam kết không thời hạn của Trung Quốc sẽ thúc đẩy lợi ích của Đài Loan. Nếu sau đó Tập ra lệnh tấn công, ông sẽ bị cho là hai mặt và hiếu chiến, khiến các quốc gia ở Đông và Đông Nam Á có nhiều khả năng ủng hộ Đài Loan hơn. Để hợp thức hóa cuộc chiến, Trung Quốc sẽ cố gắng chỉ ra những hành động khiêu khích của Đài Bắc và Washington – đó là lý do tại sao một cam kết không thời hạn sẽ khuyến khích họ kiềm chế những hành động mà Bắc Kinh có thể viện dẫn làm cái cớ gây chiến. Theo cách vòng vo này, cam kết cũng sẽ mang lại lợi ích cho Trung Quốc, miễn là Bắc Kinh thực sự không muốn dùng vũ lực để sáp nhập Đài Loan.

Song song với việc trao đổi những cam kết trấn an, Trung Quốc nên đồng ý giảm các hoạt động quân sự xung quanh Đài Loan. Họ nên khôi phục đường trung tuyến của Eo biển Đài Loan như một vùng đệm ngầm, chấm dứt các cuộc xâm nhập đã bắt đầu từ năm 2019 và gia tăng sau chuyến thăm của Pelosi vào năm 2022. Việc quay trở lại nguyên trạng trước đây báo hiệu rằng Bắc Kinh đang tìm cách xoa dịu căng thẳng giữa hai bờ eo biển và sẽ chỉ leo thang để đáp trả các hành động khiêu khích mới. Trung Quốc cũng nên đồng ý tổ chức ít các cuộc tập trận quân sự xung quanh Đài Loan hơn và ở quy mô nhỏ hơn, đồng thời ngừng xâm phạm vùng tiếp giáp lãnh hải Đài Loan, khu vực trải dài 24 hải lý xung quanh hòn đảo. Mỹ có thể cân nhắc đưa ra các biện pháp đối ứng, chẳng hạn như rút lại hệ thống tên lửa Typhon mà họ đã triển khai năm ngoái tại Philippines. Nhưng ngay cả khi Trung Quốc nhượng bộ về mặt quân sự trong khi Mỹ không làm vậy, thì đây vẫn sẽ là một thỏa thuận công bằng: áp lực chính trị từ Washington có khả năng kiềm chế Đài Loan mạnh hơn là các chiến thuật đe dọa quân sự của Trung Quốc.

RỦI RO NHỎ, LỢI ÍCH LỚN

Chắc chắn, nỗ lực này có thể phản tác dụng. Tập có thể bỏ túi những lời trấn an của Mỹ và tiếp tục gây sức ép mạnh mẽ lên Đài Loan như trước. Tuy nhiên, Mỹ có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách liên tục khuyến khích sự cảnh giác trước mối đe dọa của Trung Quốc đối với Đài Loan. Thay vì thổi phồng những lời trấn an như một bình minh mới của hòa bình, Trump nên giải thích rằng lời nói của Trung Quốc phải được chứng minh bằng hành động, và chính quyền của ông sẽ theo dõi sát sao. Đồng thời, Mỹ nên tiếp tục cải thiện vị thế của mình ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và giúp Đài Loan tăng cường năng lực quân sự.

Về phần mình, Đài Loan cũng nên tiếp tục tăng cường phòng thủ dân sự và quân sự, đồng thời kiềm chế các tuyên bố chủ quyền trong các vấn đề xuyên eo biển. Nếu các lực lượng Trung Quốc tiếp tục tiến hành các cuộc tập trận quy mô lớn và các cuộc xâm nhập thường xuyên bất chấp sự kiềm chế của Đài Bắc, họ sẽ càng làm người dân Đài Loan xa lánh đại lục và tạo ra sự ủng hộ lớn hơn từ Mỹ dành cho Đài Loan. Kịch bản này thật đáng tiếc, nhưng nó có thể chỉ đơn giản là đưa quan hệ xuyên eo biển trở lại trạng thái hiện tại, đồng thời làm rõ ý đồ của Bắc Kinh. Trong trường hợp xấu nhất, nếu Tập ra lệnh tấn công, Đài Bắc và Washington chí ít có thể sử dụng những lời trấn an đã bị vi phạm làm bằng chứng cho sự hiếu chiến và thiếu thiện chí của Bắc Kinh, từ đó giúp thu hút sự ủng hộ quốc tế dành cho Đài Loan. Đây là một lợi ích không nhỏ: xung đột có thể xoay chuyển dựa trên sự liên kết của các quốc gia khác trong khu vực và xa hơn nữa.

Do những cam kết trấn an của Mỹ và Trung Quốc có nguy cơ gây lo ngại cho Đài Loan, Washington nên tổ chức tham vấn với Đài Bắc trước và trong các cuộc đàm phán để giải thích ý định của mình, xin lời khuyên về những nhượng bộ mà họ nên tìm kiếm, và làm rõ những gì họ sẽ không đánh đổi. Việc thông báo cho Đài Loan, Nhật Bản, và các đồng minh khác về ý định của Mỹ cũng ngăn chặn những nỗ lực của Trung Quốc nhằm gieo rắc nghi ngờ về độ tin cậy của Mỹ với tư cách là một đối tác trong suốt quá trình này.

Rủi ro cuối cùng là, như đã xảy ra với các thông cáo chung trước đây, Quốc hội Mỹ có thể phản đối Tổng thống bằng cách tăng cường hỗ trợ cho Đài Loan. Các hoạt động của Quốc hội có thể mang những hình thức phản tác dụng, chẳng hạn như cam kết phòng thủ của Mỹ đối với hòn đảo. Để tránh kịch bản này, Trump nên nỗ lực thuyết phục các thành viên Quốc hội rằng thỏa thuận này là có lợi và chính quyền của ông sẽ tiếp tục hỗ trợ Đài Loan.

Việc trao đổi những lời trấn an với Trung Quốc có lẽ là hành động quan trọng nhất mà Mỹ có thể thực hiện ngay bây giờ để giảm thiểu khả năng xảy ra chiến tranh giữa các cường quốc. Không cần nhượng bộ quá nhiều, Washington vẫn có thể ngăn chặn sự đối đầu giữa hai bờ eo biển Đài Loan leo thang hơn nữa và tạo điều kiện cho một hướng đi tốt hơn xuất hiện. Nếu trấn an ngoại giao thành công trong việc tạo ra sự kiềm chế lẫn nhau, và năm 2027 trôi qua mà không có sự cố nào, thì một sự ổn định mới ở Tây Thái Bình Dương có thể được thiết lập, củng cố an ninh và thịnh vượng của một khu vực năng động và quan trọng. Đây là thời điểm thích hợp để kiểm chứng một đề xuất xứng đáng.

Stephen Wertheim là nghiên cứu viên cấp cao của Chương trình Ngoại giao Mỹ (American Statecraft) tại Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, giảng viên thỉnh giảng tại Trường Luật Yale, và là tác giả của cuốn sách “Tomorrow, the World: The Birth of U.S. Global Supremacy.”