
Nguồn: Zack Cooper, “How War in Taiwan Ends”, Foreign Affairs, 06/11/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
Trong những năm gần đây, nhiều người ở Washington đã tập trung vào việc răn đe Trung Quốc xâm lược Đài Loan. Trước khi nhậm chức vào đầu năm nay, Elbridge Colby, Thứ trưởng Quốc phòng Mỹ phụ trách về chính sách, đã khẳng định rằng Đài Loan nên “tập trung cao độ vào việc triển khai chiến lược phòng thủ chống xâm nhập trước các cuộc xâm lược”. Thực vậy, một loạt các hệ thống vũ khí hạng nhẹ, rẻ tiền rất có tiềm năng trong việc đẩy lùi một cuộc đổ bộ đường biển của Trung Quốc. Do đó, Chiến lược Quốc phòng mới của chính quyền Trump đã đúng khi chấp nhận một chiến lược chống xâm nhập để ngăn chặn một cuộc xâm lược Đài Loan.
Nhưng việc đẩy lùi một cuộc xâm lược có thể không kết thúc chiến tranh. Joel Wuthnow, một chuyên gia về quân đội Trung Quốc, đã cảnh báo: “Không có kịch bản nào mà Trung Quốc, sau một cuộc xâm lược không thành công, nhận trách nhiệm, thừa nhận giải pháp quân sự là vô ích, hay thay đổi cơ bản mục tiêu chính trị đối với Đài Loan”. Sau một cuộc xâm lược thất bại, nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình (hoặc người kế nhiệm ông) khó có thể đơn giản là rút quân về nhà. Thay vào đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể lý luận rằng họ sẽ không mất gì nhiều nếu tiếp tục cuộc chiến.
Đây là lý do tại sao nhà khoa học chính trị Michael Beckley đã lập luận rằng “chiến tranh ở Đài Loan có khả năng sẽ kéo dài, như hầu hết các cuộc chiến tranh giữa các cường quốc kể từ Cách mạng Công nghiệp”. Thế chiến II chỉ kết thúc khi lực lượng Đồng minh chiếm được thủ đô của Đức và Mỹ thả bom hạt nhân xuống Nhật Bản. Cả hai lựa chọn này đều có vẻ không nên được cân nhắc trong bối cảnh chiến tranh Mỹ-Trung; Washington cần tìm những cách khác để kết thúc cuộc chiến. Do đó, trong những năm tới, Mỹ phải chuẩn bị hai lực lượng: một để ngăn chặn cuộc xâm lược của Trung Quốc và một để kết thúc xung đột. Để ngăn chặn chiến tranh xảy ra ngay từ đầu, một phần giải pháp sẽ nằm ở các hình thức răn đe chống xâm nhập mang tính đổi mới, vốn là trọng tâm mà chính quyền Trump và nhiều bên khác đã và đang theo đuổi. Nhưng chỉ dựa vào khả năng chống xâm nhập là chưa đủ. Để chấm dứt một cuộc chiến vẫn tiếp diễn ngay cả khi đã đẩy lùi thành công cuộc tấn công ban đầu, chúng ta sẽ cần đến khả năng triển khai sức mạnh kiểu truyền thống
Về chiến lược chống xâm nhập
Trong thế kỷ 20, Mỹ đã hoàn thiện nghệ thuật triển khai sức mạnh trên phạm vi toàn cầu. Sự kết hợp của các căn cứ tiền tiêu và tàu sân bay đã cho phép lực lượng Mỹ tác chiến trên toàn thế giới. Sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, quân đội Mỹ trở nên thống trị đến mức họ có thể sử dụng cùng một lực lượng để thực hiện hai hình thức răn đe cùng lúc: răn đe chống xâm nhập và răn đe trừng phạt.
Hãy xem xét vai trò của các nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ trong khủng hoảng Eo biển Đài Loan năm 1996. Vào thời điểm đó, Trung Quốc đang tổ chức các cuộc tập trận quân sự và thử tên lửa ở vùng biển xung quanh Đài Loan. Khi căng thẳng gia tăng, Washington đã điều động hai tàu sân bay đến gần hòn đảo. Các nhóm tác chiến đó đã thực hiện răn đe chống xâm nhập bằng cách đe dọa đáp trả một cuộc tấn công một cách trực tiếp. Nhưng họ cũng thực hiện răn đe thông qua trừng phạt bằng cách đe dọa bằng những hậu quả nghiêm trọng nếu Bắc Kinh tấn công, vì máy bay trên tàu sân bay có thể tấn công các tàu hướng về Trung Quốc và thậm chí cả các mục tiêu trên đất liền Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong vài năm qua, Mỹ đã bắt đầu điều chỉnh lực lượng của mình — cả của các đồng minh và đối tác — cho các nhiệm vụ cụ thể hơn. Các căn cứ tiền tiêu và tàu sân bay rất tốn kém để xây dựng và duy trì, nhưng vẫn dễ bị tổn thương trước tên lửa đạn đạo và các hệ thống bất đối xứng khác. Do đó, các quan chức Lầu Năm Góc đang thúc đẩy việc mua sắm nhiều hệ thống “có khả năng đánh tiêu hao” hơn, sản xuất tương đối rẻ và được thiết kế để dễ bị phá hủy, được trang bị cho các đơn vị nhỏ tác chiến trong khu vực rộng lớn mà Trung Quốc đe dọa. Như David Berger, cựu Tư lệnh Thủy quân lục chiến Mỹ, đã giải thích tại một hội nghị công nghiệp quốc phòng vào năm 2021, Mỹ phải “quen dần với việc sử dụng những thứ có thể bỏ đi”.
Nhưng các hệ thống đánh tiêu hao có công dụng hạn chế đối với các hoạt động cưỡng ép hàng ngày của Trung Quốc trên không và trên biển xung quanh Đài Loan. Năm ngoái, Đài Loan đã phát hiện 5.105 lần Trung Quốc điều tiêm kích vào không phận của mình. Phòng thủ chống lại các máy bay này đòi hỏi máy bay tiêm kích đắt tiền chứ không phải drone độ cao thấp. Trong bối cảnh hàng hải, việc đáp trả các cuộc xâm nhập hải quân của Trung Quốc ở vùng biển xung quanh Đài Loan sẽ cần các tàu có thể giám sát các hoạt động đó và thách thức lực lượng Trung Quốc nếu cần thiết.
Ngay cả khi xung đột nổ ra, chiến lược răn đe chống xâm nhập vẫn là một giải pháp chưa trọn vẹn. Dù thủy lôi và tên lửa của Mỹ có thể đánh chìm tàu Trung Quốc và gây thương vong lớn, các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn có thể cố đạt được chiến thắng một phần. Cụ thể, Quân đội Trung Quốc có thể cố gắng chiếm các đảo xa bờ của Đài Loan hoặc thiết lập phong tỏa hàng hải trong khi kho vũ khí của họ biến vùng biển xung quanh thành khu vực cấm. Cựu sĩ quan tình báo Lonnie Henley đã lập luận: “Mỹ không thể giành chiến thắng nếu không thực hiện một cuộc phong tỏa kéo dài”.
Đó là lý do tại sao Mỹ phải có khả năng thuyết phục Trung Quốc rằng họ sẽ phải đối mặt với cái giá không thể chấp nhận được nếu tiếp tục chiến đấu sau một cuộc xâm lược thất bại. Chiến lược chống xâm nhập chỉ là bước đầu, mối đe dọa trừng phạt mới là con át chủ bài cuối cùng của Mỹ.
Không thể và sẽ không dừng cuộc chiến
Cuộc chiến ở Ukraine minh họa sự khó khăn trong việc chấm dứt một cuộc xung đột ngay cả sau khi một cuộc xâm lược ban đầu bị sa lầy. Với các hệ thống vũ khí nhỏ và rẻ tiền như drone và thủy lôi, Ukraine đã có thể ngăn chặn Nga đạt được một chiến thắng nhanh chóng nhưng lại thất bại trong việc gây ra một cái giá đủ cao để thuyết phục Tổng thống Nga Vladimir Putin ngừng cuộc chiến. Nga đã chịu tổn thất khủng khiếp trong cuộc chiến, nhưng Putin dường như đã tính toán rằng cái giá của việc tiếp tục thấp hơn cái giá của việc thừa nhận thất bại.
Tình hình của Nga là lời cảnh báo về cách Trung Quốc sẽ hành xử. Lý tưởng nhất là viễn cảnh một cuộc xâm lược Đài Loan thất bại sẽ ngăn chặn được Trung Quốc, nhưng trên thực tế, các nhà lãnh đạo Bắc Kinh có thể thấy có nhiều lý do để tiếp tục kéo dài chiến tranh sau một thất bại ban đầu. Lợi thế đầu tiên là năng lực công nghiệp vượt trội của Trung Quốc so với Mỹ, cho phép họ tái trang bị lực lượng nhanh hơn. Trong ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã thực hiện việc xây dựng sức mạnh quân sự khổng lồ. Hải quân Mỹ ước tính khả năng đóng tàu của Trung Quốc gấp hơn 230 lần của Mỹ. Trong khi đó, lực lượng vũ trang Mỹ phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt đạn dược nghiêm trọng, với dự đoán kho dự trữ Mỹ có thể cạn kiệt chỉ sau vài tuần, thậm chí vài ngày, nếu xung đột với Trung Quốc xảy ra.
Bắc Kinh có thể tin rằng họ có khả năng trụ vững lâu hơn Washington và Đài Bắc về mặt tiếp tế nói chung. Việc vận chuyển tiếp tế qua đường bộ vào Ukraine đã khó khăn, nhưng việc đưa nhu yếu phẩm cơ bản qua đường biển đến Đài Loan trong xung đột với Trung Quốc sẽ còn khó khăn hơn gấp bội. Đài Loan là một hòn đảo nhỏ, có nguồn dự trữ thực phẩm và năng lượng hạn chế. Ngược lại, việc Bắc Kinh đẩy mạnh phát triển năng lượng gió, mặt trời và hạt nhân sẽ giúp họ tự bảo vệ tốt hơn trước một cuộc phong tỏa năng lượng từ Mỹ.
Một cuộc xung đột ở Đài Loan cuối cùng có thể trở thành một cuộc đấu tranh về ý chí—một cuộc chiến mà Bắc Kinh tin rằng họ sẽ thắng. Các quan chức Trung Quốc luôn mô tả Đài Loan là “lợi ích cốt lõi nhất trong các lợi ích cốt lõi” của họ. Tuy nhiên, cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump lại có quan điểm khác hẳn: “Đài Loan cách Mỹ 9.500 dặm”, còn cách Trung Quốc chỉ 68 dặm. Tôi nghĩ chúng ta phải khôn ngoan… đây là một vấn đề vô cùng khó khăn”. Thực tế là dù người dân Mỹ có ủng hộ Đài Loan, nhưng nhiều người không muốn xảy ra xung đột trực tiếp với Trung Quốc: một khảo sát năm 2024 của Chicago Council on Global Affairs cho thấy khi được hỏi về cam kết bảo vệ Đài Loan, đa số người Mỹ trả lời hoặc là phản đối hoặc là không chắc chắn về một chính sách như vậy.
Việc Trung Quốc thất bại trong xung đột ở Đài Loan cũng có thể đe dọa quyền lực của Tập hoặc người kế nhiệm ông và làm suy yếu tính chính danh của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tập sẽ muốn tránh thừa nhận thất bại và do đó có thể ra lệnh cho quân đội Trung Quốc tiếp tục tiến hành một cuộc chiến không thể thắng. Nếu không có viễn cảnh bị trừng phạt, ĐCSTQ có thể quyết định rằng thất bại gây ra rủi ro lớn hơn việc tiếp tục xung đột.
Vì tất cả những lý do này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể chọn tiếp tục chiến đấu ngay cả sau một thất bại ban đầu. Để đưa xung đột đến hồi kết, Mỹ sẽ cần phải đe dọa trừng phạt một cách đáng tin cậy. Colby và các quan chức khác của chính quyền Trump rõ ràng nhận ra điều này, ông là đồng tác giả của một báo cáo năm 2022 ủng hộ “các chiến dịch trừng phạt có chọn lọc” và “áp đặt chi phí để quản lý leo thang một cách thuận lợi và tìm cách chấm dứt chiến tranh với Trung Quốc”. Các chiến dịch này có thể bao gồm cấm vận hoặc tịch thu tài sản của Trung Quốc được giữ ở nước ngoài. Nhưng Bắc Kinh đã tự bảo vệ mình khỏi áp lực chính trị và kinh tế, vì vậy việc leo thang quân sự có thể là cần thiết, bao gồm các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng quan trọng và các bộ phận của cơ sở công nghiệp quốc phòng của Trung Quốc. Những động thái này sẽ làm tăng chi phí cho Trung Quốc khi tiếp tục xung đột, nhưng chúng cũng đặt ra một tình thế lưỡng nan về chiến lược.
Nghịch lý Goldilocks
Nhiều yếu tố sẽ làm cho việc đe dọa trừng phạt trở nên phức tạp. Yếu tố đầu tiên là cái mà các nhà nghiên cứu tại Tập đoàn RAND gọi là “Thách thức Goldilocks”: Mối đe dọa trừng phạt phải đủ cao để thuyết phục Bắc Kinh chấm dứt một cuộc xung đột mà họ đã đầu tư rất nhiều, nhưng đồng thời phải đủ thấp để tránh gây ra leo thang không thể chấp nhận được, ví dụ như việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Việc tìm ra mức độ trừng phạt “vừa phải” này chắc chắn là một nhiệm vụ không hề dễ dàng.
Do đó, điều quan trọng là phải cố gắng giữ cho cuộc chiến ban đầu ở Đài Loan trong giới hạn để cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc một con đường để giảm leo thang. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể lùi bước sau khi tuyên bố đã dạy cho Đài Loan một bài học hoặc chiếm được một số lãnh thổ đang tranh chấp. Tuy nhiên, thông điệp của chính Trung Quốc trước xung đột có thể đặt ra một tiêu chuẩn cao hơn: các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể bôi nhọ Đài Loan và Mỹ để tập hợp sự ủng hộ của công chúng, đồng thời ca ngợi ưu thế quân sự của Quân đội Trung Quốc và sự phục hưng vĩ đại của Trung Quốc. Một cuộc xâm lược Đài Loan có thể bắt đầu bằng việc Bắc Kinh tự cắt đường lui để không thể quay đầu lại.
Sau xung đột ở Eo biển Đài Loan, các chính trị gia ở Washington, Đài Bắc và những nơi khác có thể tự nâng cao mức độ rủi ro. Họ có thể tận dụng thời điểm Bắc Kinh suy yếu để hạn chế tham vọng của Trung Quốc, hợp thức hóa độc lập của Đài Loan, hoặc làm suy yếu quyền lực của ĐCSTQ. Sẽ có một ranh giới mong manh giữa các chính sách “quá nóng” và “quá lạnh”, và sự đánh đổi sẽ trở nên khó khăn hơn khi chiến tranh kéo dài hơn, đẫm máu hơn và mang tính hủy diệt hơn.
Thách thức thứ hai là khả năng leo thang theo chiều ngang (horizontal escalation) – mở rộng phạm vi xung đột – của Mỹ ngày nay có thể không còn hiệu quả như trước. Việc dồn nhiều ngân sách hơn cho chiến lược chống xâm nhập có nguy cơ làm xói mòn nguồn lực dành cho các khí tài có khả năng trừng phạt tốt hơn, như máy bay ném bom tàng hình và tàu ngầm mang tên lửa hành trình. Hơn nữa, dù các nhà chiến lược Mỹ từng tính đến khả năng phong tỏa nhằm cắt nguồn cung năng lượng của Trung Quốc, nhưng các nhà máy điện hạt nhân và năng lượng tái tạo của Trung Quốc hiện chiếm một phần ba sản lượng năng lượng của nước này, khiến Bắc Kinh không còn dễ bị tổn thương trước một cuộc phong tỏa năng lượng. Dù việc cắt giảm nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch sẽ gây tổn thương cho Trung Quốc theo thời gian, nhưng Đài Loan sẽ ở trong tình thế tồi tệ hơn nhiều.
Do đó, thách thức lớn nhất đối với Chiến lược Quốc phòng của chính quyền Trump không phải là liệu nó có phân bổ nguồn lực cho chiến lược chống xâm nhập hay không mà là cách nó tích hợp chống xâm nhập và trừng phạt thành một khuôn khổ răn đe toàn diện. Đẩy lùi một cuộc tấn công ban đầu vào Đài Loan là cần thiết nhưng chưa đủ. Nếu không có kế hoạch chấm dứt chiến tranh, Washington có nguy cơ lặp lại mô hình chiến lược của Mỹ ở Iraq và Afghanistan mà nhiều quan chức Trump đã chỉ trích: thắng trận đầu nhưng thua cả cuộc chiến. Nếu Mỹ muốn răn đe Trung Quốc, họ sẽ phải thuyết phục các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng Washington có một chiến lược không chỉ cho giai đoạn đầu của xung đột mà còn cho cho giai đoạn kết thúc của cuộc chiến.
ZACK COOPER là Nghiên cứu viên Cao cấp tại American Enterprise Institute và là giảng viên tại Đại học Princeton.
