
Nguồn: “Lessons from Japan’s efforts to wean itself off Chinese rare earths”, The Economist, 04/12/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy
Khi Nhật Bản và Trung Quốc xảy ra mâu thuẫn về một nhóm đảo đang tranh chấp vào năm 2010, Trung Quốc đã triển khai một vũ khí mới. Bắc Kinh đã áp đặt lệnh cấm không chính thức đối với việc xuất khẩu đất hiếm – các khoáng sản được sử dụng trong mọi thứ từ ô tô đến tên lửa. Kể từ đó, biện pháp cưỡng ép kinh tế như vậy đã trở nên phổ biến. Năm nay, Trung Quốc đã sử dụng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ mới đối với đất hiếm để buộc Mỹ phải lùi bước trong cuộc chiến thương mại.
Mối quan hệ giữa Nhật Bản và Trung Quốc lại căng thẳng trở lại trong những tuần gần đây. Tháng trước, Thủ tướng Nhật Bản Takaichi Sanae tuyên bố rằng một cuộc xâm lược Đài Loan có thể vượt qua giới hạn buộc Nhật Bản phải đáp trả bằng quân sự. Điều này đã gây ra phản ứng dữ dội từ Trung Quốc, khiến nước này cắt giảm một số chuyến bay thẳng đến Nhật Bản, cảnh báo công dân không nên đến đó du lịch, và điều tàu hải cảnh đến nhóm đảo mà hai cường quốc này đã tranh chấp 15 năm trước, được Nhật Bản gọi là Senkaku còn Trung Quốc gọi là Điếu Ngư.
Các quan chức Nhật Bản đang chuẩn bị cho một cuộc chiến kinh tế khác. Lần này họ đã chuẩn bị tốt hơn. Những bài học mà Nhật Bản đã học được có thể hữu ích cho các quốc gia khác đang phải vật lộn để đối phó với sự bắt nạt bằng đất hiếm của Trung Quốc. Chúng cũng cho thấy điều này sẽ khó khăn đến mức nào.
Vào thời điểm xảy ra khủng hoảng Senkaku, Nhật Bản phụ thuộc vào Trung Quốc khoảng 90% lượng đất hiếm của mình. Khi Trung Quốc cắt xuất khẩu, dây chuyền sản xuất của Nhật Bản gần như ngừng hoạt động. Nhật Bản đã nhanh chóng trả tự do cho một thuyền trưởng tàu cá Trung Quốc đã đâm vào một tàu hải cảnh Nhật Bản gần các hòn đảo. Chỉ sau đó các chuyến hàng khoáng sản mới bắt đầu được vận chuyển trở lại. Vậy, bài học đầu tiên, là một bài học đau đớn mà Mỹ đã học được: trong ngắn hạn, Trung Quốc nắm giữ lợi thế.
Ngay sau cuộc đối đầu với Trung Quốc, chính phủ Nhật Bản đã thông qua ngân sách bổ sung 100 tỷ yên (1,2 tỷ USD) cho chuỗi cung ứng đất hiếm. Nước này cũng xây dựng một chiến lược quốc gia để phá vỡ sự kiểm soát chặt chẽ của Trung Quốc đối với các vật liệu này. Điều này bao gồm việc tìm kiếm các nguồn đất hiếm thay thế, giảm tổng thể việc sử dụng chúng, và dự trữ chúng cho cuộc khủng hoảng tiếp theo. Một thập kỷ sau, Nhật Bản đã cố gắng giảm tỷ lệ đất hiếm mà họ mua từ Trung Quốc xuống một phần ba. Nhưng điều đó có nghĩa là họ vẫn phụ thuộc vào người hàng xóm thích cưỡng ép này khoảng 60% lượng đất hiếm.
Bài học thứ hai chỉ ra rằng việc đạt được sự thay đổi dù nhỏ cũng vô cùng khó khăn. Vấn đề không nằm ở số lượng. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ các ngành công nghiệp cần đa dạng các loại đất hiếm. Hai công ty Nhật Bản đã cùng nhau mua một cổ phần lớn trong Lynas, một công ty khai thác đất hiếm của Úc, nơi cung cấp dồi dào các loại khoáng sản “nhẹ”, tức là dễ khai thác hơn. Tuy nhiên, phải đến tận tháng Mười này, những lô đất hiếm “nặng” đầu tiên từ mỏ của họ mới về đến Nhật Bản. Đất hiếm không chỉ khó khai thác mà quá trình tinh chế chúng cũng rất tốn kém, kéo dài và gây hại cho môi trường, nên ít quốc gia muốn chấp nhận thực hiện. Hiện tại, nguyên liệu thô từ các mỏ của Lynas ở Úc chủ yếu được tinh chế tại Malaysia.
Sau tất cả những nỗ lực đó, đất hiếm nhập khẩu từ Malaysia vào Nhật Bản từ năm 2020 đến 2024 vẫn có giá trung bình cao hơn 50% so với các sản phẩm tương tự của Trung Quốc, theo Mizuho, một ngân hàng Nhật Bản. Các công ty sản xuất những thứ như tên lửa và máy bay chiến đấu có thể sẵn sàng trả mức giá cao hơn để giảm thiểu rủi ro. Những công ty trong thị trường tiêu dùng cạnh tranh có lẽ sẽ không làm như vậy. Trong khi đó, nhu cầu về đất hiếm đang vượt quá nguồn cung mới của Nhật Bản. Sự phụ thuộc của nước này vào Trung Quốc đã tăng trở lại và hiện ở mức khoảng 70%, theo Viện Kinh tế Năng lượng, một tổ chức nghiên cứu của Nhật Bản. Bài học thứ ba, có phần gây nản lòng, là rất khó để tái tạo sự kiểm soát của Trung Quốc đối với toàn bộ quy trình sản xuất, chưa nói đến quy mô của nước này, vốn cùng nhau mang lại cho Trung Quốc sức mạnh định giá đáng kể.
Cho đến nay, Trung Quốc vẫn chưa sử dụng đất hiếm trong tranh chấp hiện tại với Nhật Bản. Lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình có thể ngần ngại rút vũ khí đặc biệt này ra, vì e rằng nó sẽ làm đổ vỡ thỏa thuận ngừng bắn mong manh mà ông đã đạt được trong cuộc chiến thương mại với Mỹ. Hoặc đơn giản là Trung Quốc đang để dành át chủ bài đất hiếm này cho giai đoạn sau của cuộc đối đầu ngoại giao. Các quan chức Nhật Bản nhận định rằng việc giảm căng thẳng trở lại mức trước khi xảy ra xích mích sẽ là vấn đề của vài tháng hoặc vài năm, chứ không phải chỉ trong vài ngày hoặc vài tuần.
Nếu các khoáng sản thiết yếu thực sự được sử dụng làm vũ khí, những nỗ lực của Nhật Bản nhằm tìm kiếm nguồn cung thay thế và xây dựng kho dự trữ sẽ giúp họ có thêm thời gian ứng phó. Điều này sẽ giúp ngăn chặn tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng từng đẩy ngành công nghiệp Nhật Bản vào thế khủng hoảng năm 2010. Suzuki Kazuto từ Viện Địa Kinh tế ở Tokyo nhận định: Hồi đó, “Cảm giác như rơi xuống vực thẳm”. Còn lần này, “Sẽ giống như bị ô tô đâm—cả hai đều nghiêm trọng, nhưng ít nhất chúng tôi sẽ có thể sống sót”. Bài học cuối cùng, do đó, là vũ khí kinh tế của Trung Quốc thực sự có thể bị làm cùn đi, song cú đánh mà nó giáng xuống vẫn sẽ rất nặng nề.
