Giấc mơ điện hạt nhân của Việt Nam: Khó mấy cũng phải “né” Trung Quốc

Nguồn: Văn Thiếu Khanh, 文少卿:日本人说“时间不够了”,把越南留在了冬日的冷风里, Sina Finance, 14/12/2025.

Biên dịch: Lê Thị Thanh Loan

Ngày 8/12, Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Naoki Ito nói với Reuters rằng, Nhật Bản đã rút khỏi kế hoạch xây dựng nhà máy điện hạt nhân quy mô lớn tại Việt Nam, với lý do tiến độ “quá gấp gáp”.

Nói một cách đơn giản, Nhật Bản đã “xách đồ nghề bỏ chạy”. Họ thậm chí còn không bận tâm đến việc đưa ra một lời nói giảm nói tránh kiểu “điều kiện chưa chín muồi”, mà trực tiếp dùng đến câu thoái thác quen thuộc nhất, qua đó thẳng tay ném bản kế hoạch phát triển điện hạt nhân, thậm chí cả giấc mơ tạo ra “kỳ tích châu Á tiếp theo” của Việt Nam, vào giữa bầu không khí lạnh lẽo của tháng 12.

Năng lượng hạt nhân – chiếc phao cứu sinh của Việt Nam

Việt Nam đang trải qua tình trạng thiếu điện, điều này đã không còn là tin mới.

Các nhà máy hoạt động 24/7, với dây chuyền sản xuất cho Samsung, Apple và Foxconn không thể ngừng vận hành; máy điều hòa, xe điện và thiết bị gia dụng trong các hộ gia đình trung lưu đồng loạt hoạt động; cùng với những đợt nắng nóng dễ dàng lên tới 40°C và những cơn bão khó lường, hễ thủy điện cạn nước là lưới điện lập tức “đình công”. Kết quả, cắt điện đã trở thành chuyện thường ngày.

Vào tháng 6/2023, miền Bắc Việt Nam đã rơi vào tình trạng thiếu điện nghiêm trọng, dẫn đến việc cắt điện luân phiên trên diện rộng, làm tê liệt các dây chuyền sản xuất của Samsung và Foxconn. Ngay cả Intel cũng buộc phải rút lui khỏi kế hoạch mở rộng, khiến hình ảnh “ứng cử viên dự bị cho vị trí công xưởng thế giới” của Việt Nam gần như sụp đổ. Ngày 4/12 năm nay, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Trần Thanh Mẫn nói thẳng rằng: “Hiện nay, khi các chủ doanh nghiệp nước ngoài bay đến Hà Nội hay TP.HCM, câu đầu tiên họ hỏi khi vừa hạ cánh không phải là về chính sách hay giá đất, mà là ‘Ở đây… có đủ điện không?’”

Chính phủ Việt Nam tất nhiên nhận thức rõ điều này. Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết: “Mục tiêu của Việt Nam là đạt mức tăng trưởng kinh tế từ 8% trở lên vào năm 2025 và mức hai chữ số trong những năm tiếp theo. Vì vậy, nhu cầu điện chắc chắn sẽ tăng từ 12-16% mỗi năm. Việt Nam đang thúc đẩy phát triển kinh tế dựa trên công nghệ và đổi mới, đặc biệt là trong các lĩnh vực mới nổi như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, Internet vạn vật và dữ liệu lớn, nên nhu cầu điện năng là rất lớn.”

Cụ thể, theo bản sửa đổi vào tháng 4 năm nay của Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn VIII (PDP8), tổng công suất lắp đặt của Việt Nam phải tăng từ 94 GW vào năm 2025 lên 183-236 GW vào năm 2030 – tức gần gấp ba chỉ trong ba năm. Đến năm 2050, mục tiêu là đạt 839 GW. Tốc độ tăng trưởng này chỉ có thể mô tả bằng cụm từ “làm lớn, làm nhanh”.

Nhưng câu hỏi đặt ra là: Điện đến từ đâu?

Theo số liệu thống kê mới nhất do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) công bố hồi tháng 11, điện than vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng sản lượng điện của Việt Nam với 54,3%, tiếp theo là thủy điện (23,4%) và năng lượng tái tạo (13,5%). Tuy nhiên, điều quan trọng là tại COP26, Việt Nam đã cam kết đạt được mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050, nghĩa là điện than sớm muộn sẽ bị loại bỏ. Điện mặt trời và điện gió đang phát triển nhanh chóng, nhưng độ tin cậy vẫn còn hạn chế nếu không có nguồn điện nền ổn định. Vì vậy, điện hạt nhân trở thành giải pháp lý tưởng, bởi nó sạch, đáng tin cậy và hoạt động 24/7.

Việt Nam bắt đầu nghiêm túc cân nhắc phát triển năng lượng hạt nhân vào đầu thế kỷ 21. Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt Chiến lược sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020, đề xuất đưa nhà máy điện hạt nhân đầu tiên tại tỉnh Ninh Thuận đi vào vận hành trong giai đoạn 2017-2020. Năm 2008, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Năng lượng nguyên tử, qua đó cung cấp các đảm bảo pháp lý cho việc phát triển năng lượng hạt nhân.

Tháng 11/2009, Quốc hội Việt Nam bỏ phiếu thông qua nghị quyết xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, đánh dấu sự khởi đầu chính thức của công cuộc phát triển năng lượng hạt nhân tại nước này. Cuối năm đó, Việt Nam ký thỏa thuận với Tập đoàn Năng lượng Nguyên tử Quốc gia Nga (ROSATOM), theo đó phía Nga sẽ hỗ trợ Việt Nam xây dựng Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận 1, hay còn gọi là Nhà máy Điện hạt nhân Phước Dinh. Vào năm sau, Công ty Điện hạt nhân Nhật Bản (Japan Atomic Power Company – JAPC) trúng thầu xây dựng Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận 2, hay còn gọi là Nhà máy Điện hạt nhân Vĩnh Hải. Hai nhà máy điện hạt nhân này có tổng công suất lắp đặt 4.000 MW với tổng vốn đầu tư khoảng 8,9 tỷ USD. Ban đầu, dự kiến ​​khởi công vào năm 2015 và đi vào hoạt động năm 2020.

Tháng 10/2010, Việt Nam và Nga ký kết hiệp định liên chính phủ, theo đó phía Nga sẽ xây dựng hai lò phản ứng VVER-1000 (cùng loại với Nhà máy Điện hạt nhân Điền Loan của Trung Quốc) cho Ninh Thuận 1. Đến tháng 10/2014, hai bên quyết định chuyển sang sử dụng lò phản ứng VVER-1200 (có công suất thiết kế gần 1200 MW). Bộ Tài chính Nga cam kết cung cấp ít nhất 85% kinh phí cho dự án, đồng thời cũng cung cấp nhiên liệu và thu hồi nhiên liệu đã qua sử dụng trong suốt vòng đời vận hành – một chính sách mà Nga thường áp dụng với các quốc gia không sở hữu vũ khí hạt nhân.

Đối với Ninh Thuận 2, Nhật Bản cũng cam kết hỗ trợ 85% tổng chi phí dự án và bảo hiểm. Dự án được thực hiện với sự hợp tác giữa JAPC, Công ty Phát triển Năng lượng Hạt nhân Quốc tế Nhật Bản (JINED) và EVN. JINED là một liên doanh gồm Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản, 9 công ty điện lực (đứng đầu là Chubu Electric, Kansai Electric và Tokyo Electric Power) và 3 tập đoàn chế tạo (Mitsubishi Heavy Industries, Toshiba và Hitachi).

Tháng 2/2011, JAPC và EVN ký thỏa thuận về triển khai nghiên cứu khả thi. Đến tháng 9 cùng năm, hợp đồng triển khai nghiên cứu khả thi kéo dài 18 tháng và trị giá 26 triệu USD đã được ký kết, với kinh phí do chính phủ Nhật Bản chi trả. Nhật Bản cũng cam kết đào tạo khoảng 1.000 nhân viên cho Ninh Thuận 2.

Nghiên cứu khả thi kết thúc vào tháng 5/2013. Vào thời điểm đó, vẫn chưa có phương án công nghệ – kỹ thuật nào được chốt, nhưng dường như có xu hướng ưu tiên lò phản ứng nước áp lực, với tham chiếu là tổ máy số 3 (công suất 866 MW) của Nhà máy Điện hạt nhân Tomari thuộc Công ty Điện lực Hokkaido. Toshiba, thông qua Westinghouse Electric của Mỹ, đã đề xuất tổ máy AP1000 (đang được sử dụng tại Nhà máy Điện hạt nhân Tam Môn ở Đài Châu – Chiết Giang, với công suất thực khoảng 1100 MW). Vào tháng 9/2015, lại xuất hiện thông tin cho rằng Việt Nam nghiêng về tổ máy Atmea 1 (do Areva và Mitsubishi Heavy Industries cùng thiết kế, cũng có công suất 1100 MW).

Ban đầu, mọi việc diễn ra tương đối suôn sẻ và theo đúng kế hoạch, nhưng đến tháng 11/2016, Việt Nam đột nhiên quay ngoắt 180 độ, tuyên bố đình chỉ vô thời hạn dự án điện hạt nhân với lý do “ngân sách eo hẹp và nhu cầu chưa đủ lớn”. Thay vào đó, Hà Nội chuyển sang đẩy mạnh sử dụng than đá và khí thiên nhiên hóa lỏng giá rẻ, nhập khẩu thủy điện từ Lào và \mở rộng điện mặt trời, như thể năng lượng hạt nhân chỉ là phương án dự phòng và có thể gạt sang một bên khi không cần thiết.

Một nhiệm vụ gần như bất khả thi

Tháng 11/2023, tại một hội thảo năng lượng ở Hải Khẩu (Trung Quốc), một đại diện của Cục Năng lượng Nguyên tử thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã khẳng định chắc nịch: “Đến năm 2030, chúng tôi có thể đạt 150 GW công suất lắp đặt chỉ với thủy điện, điện gió và điện mặt trời, mà không cần đến điện hạt nhân.”

Thế nhưng đến cuối năm sau, Hà Nội lại vội vàng tuyên bố khởi động lại chương trình hạt nhân.

Xét theo tiêu chuẩn ra quyết sách của Việt Nam, tốc độ này không thể coi là chậm. Tháng 4/2025, điện hạt nhân được đưa vào phiên bản mới của Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn VIII. Đến tháng 6, Luật Năng lượng nguyên tử mới nhanh chóng được thông qua. Tiếp đó vào tháng 9, Thủ tướng Phạm Minh Chính trực tiếp chỉ đạo, yêu cầu báo cáo tiền khả thi của Ninh Thuận 1 và 2 phải hoàn thành trước tháng 9/2025 và tháng 6/2026.

Điều đáng chú ý hơn nữa là tiến độ triển khai: Hai nhà máy, bốn tổ máy, với tổng công suất 4,8 GW, dự kiến ​​hoàn thành trong vòng 5 năm.

Không phải 15 năm, không phải 10 năm, mà là chưa đến 5 năm! Thủ tướng Phạm Minh Chính thậm chí còn yêu cầu rõ ràng rằng, dự án phải được đưa vào vận hành chậm nhất là cuối năm 2031 và phấn đấu hoàn thành trước cuối năm 2030, để kịp chào mừng kỷ niệm 85 năm Quốc khánh Việt Nam và 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đến lúc này, có lẽ đã có thể hiểu vì sao Nhật Bản quyết định rút lui.

Điều đáng chú ý là, sau khi phía Nhật Bản rút lui, các quan chức Việt Nam cho biết thỏa thuận về Ninh Thuận 1 vốn do Nga phụ trách cũng chưa được ký kết. Cả Đại sứ quán Nga tại Việt Nam và EVN đều chưa đưa ra bình luận nào về vấn đề này.

Trên thực tế, những khó khăn vốn đã không còn là bí mật. Tháng 6 vừa qua, tờ Nikkei Asian Review dẫn lời một quan chức Nhật Bản từng thăm Việt Nam vào tháng 2 cho biết: “Hiện tại, chúng tôi không có mẫu lò phản ứng nào có thể cung cấp được.” Vị này cũng thẳng thắn cảnh báo rằng, sớm nhất phải đến năm 2036 nhà máy mới có thể phát điện, và nhiều khả năng là phải đến năm 2040.

Trên thực tế, ngay cả mốc năm 2040 cũng được đánh giá là khá lạc quan. Cựu Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Việt Nam Nguyễn Quân cho rằng, dự án sẽ cần ít nhất 15 năm. Các tính toán chi tiết hơn của truyền thông trong nước cho thấy, chỉ riêng việc tái khởi động tổ máy đầu tiên sẽ mất tối thiểu 148 tháng (hơn 12 năm), và tái khởi động tổ máy thứ hai sẽ mất thêm 10 tháng nữa, tổng cộng là 158 tháng, tức khoảng 13 năm.

Các tiền lệ quốc tế cho thấy, những con số trên vẫn còn tương đối “dễ chịu”. Dự án điện hạt nhân Hinkley Point C ở Anh khởi công năm 2017 với nguồn lực vượt xa Việt Nam, nhưng dự kiến ​​phải đến năm 2031 mới hoàn thành, chậm 14 năm so với kế hoạch ban đầu và đội vốn khoảng 22 tỷ USD. Tại Phần Lan, tổ máy số 3 của Nhà máy Olkiluoto ban đầu dự kiến hoàn thành trong 4 năm, nhưng thực tế đã mất tới 17 năm. Xét đến năng lực xử lý vật liệu phóng xạ còn hạn chế của Việt Nam, việc “đẩy nhanh tiến độ” này thực sự đáng lo ngại. Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) từng khuyến cáo Việt Nam nên thận trọng, đồng thời nhấn mạnh rằng phải chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi khởi động bất kỳ dự án năng lượng hạt nhân nào.

Những thách thức về tài chính cũng không hề nhỏ. Một trong những lý do chính khiến Việt Nam từ bỏ điện hạt nhân vào năm 2016 là chi phí tăng vọt từ 8,9 tỷ USD lên 18 tỷ USD. Hiện nay, khi kế hoạch được tái khởi động, kinh phí đã tăng lên 22 tỷ USD, tương đương khoảng 5% GDP của Việt Nam. Quan trọng hơn nữa, dự án Ninh Thuận còn phải cạnh tranh ngân sách với nhiều công trình hạ tầng trọng điểm khác, đặc biệt là dự án Đường sắt cao tốc Bắc-Nam trị giá 67 tỷ USD.

Xét về năng lực triển khai cơ sở hạ tầng, thành tích của Việt Nam cũng khiến người ta không khỏi lo ngại, với rất ít dự án lớn tránh được tình trạng chậm tiến độ nghiêm trọng, đội vốn và các bê bối tham nhũng. Sân bay quốc tế Long Thành ở TP.HCM – được coi là “bộ mặt quốc gia” – đã bị vướng vào các tranh chấp giải phóng mặt bằng kéo dài nhiều năm và dự kiến ​sớm nhất phải đến năm 2026 mới có thể vận hành một phần. Tuyến Metro số 1 ở TP.HCM được khởi công xây dựng từ năm 2007 và chỉ mới đi vào hoạt động từ tháng 12 năm nay, tức một tuyến đường dài 20 km đã mất tới 18 năm để hoàn thành. Dự án Đường sắt cao tốc Bắc-Nam, dự kiến ​​khởi công vào cuối năm 2026, thậm chí vẫn chưa xác định được đối tác.

Trong một vài trường hợp, vấn đề lớn nhất không nằm ở sự chậm trễ, mà ở việc đánh đổi chất lượng để đáp ứng các mốc chính trị. Ví dụ, nhà ga T3 của sân bay Tân Sơn Nhất ở TP.HCM, với tổng vốn đầu tư khoảng 450 triệu USD, đã được đưa vào hoạt động sớm hơn hai tháng so với kế hoạch, nhưng nhanh chóng bộc lộ hàng loạt lỗi như dột mái và nứt sàn, trở thành ví dụ điển hình của một công trình xây dựng kém chất lượng.

Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận cũng đối mặt với những thách thức tương tự về giải phóng mặt bằng. Năm 2015, chính phủ đã chi 150 triệu USD để di dời khoảng 5.000 người dân địa phương. Nhưng khi dự án bị đình chỉ vào năm 2016, đất đai đã được trả lại cho người dân để canh tác và xây nhà ở. Giờ đây, khi dự án được tái khởi động, chính phủ mới phát hiện ra rằng, trong số 485 ha đất thuộc khu nhà máy số 1, có tới 409 ha đã được sử dụng để xây dựng nhà ở; còn trong số 643 ha đất thuộc khu nhà máy số 2, có khoảng 404 ha cũng đã trở thành khu dân cư. Vào tháng 8 năm nay, Phó Thủ tướng Việt Nam đã ra chỉ thị khẩn, yêu cầu hoàn tất việc di dời lần hai trước cuối năm 2025.

Công bằng mà nói, Nhật Bản không phải là không có năng lực trong phát triển năng lượng hạt nhân. Sau thảm họa Fukushima, họ đặc biệt mong muốn dựa vào xuất khẩu điện hạt nhân để xoay chuyển cục diện. Tuy nhiên, cuối cùng thì Nhật Bản đã từ bỏ.

Nếu ngay cả Nhật Bản cũng không thể chấp nhận các điều kiện hiện tại thì vấn đề rõ ràng là rất nghiêm trọng.

Nhân lực là “nút thắt cổ chai” lớn nhất

Tiến độ phi thực tế, ngân sách eo hẹp, quản lý thiếu hiệu quả… tất cả những điều này chắc hẳn đã đủ tệ, nhưng điều thực sự khiến giấc mơ điện hạt nhân của Việt Nam bấp bênh không phải là tiền bạc hay bản thiết kế, mà là con người. Nói chính xác hơn, đó là sự thiếu hụt nhân lực.

Trong vấn đề nhân lực năng lượng hạt nhân, Việt Nam là ví dụ điển hình của nền tảng yếu kém và nguồn nhân lực hạn chế. Năm 2010, chính phủ từng đặt ra mục tiêu đầy tham vọng là đến năm 2020 sẽ đào tạo được “vài nghìn” chuyên gia hạt nhân. Thế nhưng, đến khi dự án bị đình chỉ vào năm 2016, cả nước chỉ có 429 sinh viên được cử sang Nga học ngành hạt nhân, 31 người sang Nga và Pháp đào tạo nâng cao, 33 kỹ sư thực tập tại các nhà máy điện hạt nhân ở Nhật Bản, và 24 kỹ sư khác được đào tạo trong nước – tổng cộng chưa tới 500 người. Năm 2017, nhóm 28 sinh viên Việt Nam đầu tiên đã hoàn thành chương trình kéo dài 6 năm tại Đại học Nghiên cứu Hạt nhân Quốc gia Nga (Viện Vật lý Kỹ thuật Moskva), trở thành “mồi lửa” cho ngành năng lượng hạt nhân trong nước.

Tuy nhiên, khi ngọn lửa vừa mới bắt đầu nhen nhóm thì chính Việt Nam lại tự tay dập tắt nó.

Khi các dự án điện hạt nhân bị đình chỉ vào năm 2016, Bộ Giáo dục Việt Nam đã nhanh chóng loại bỏ các chuyên ngành liên quan đến hạt nhân khỏi chương trình đại học. Các khóa học bị ngừng lại, phòng thí nghiệm bị đóng cửa, thậm chí các giảng viên dạy vật lý hạt nhân cũng phải chuyển sang dạy vật lý đại cương. Còn những người từng dành 6 đến 7 năm để theo đuổi lĩnh vực này buộc phải tìm lối rẽ khác: Một số chuyển sang lập trình hoặc làm thương mại điện tử xuyên biên giới, trong khi số khác lựa chọn trực tiếp chuyển đến các quốc gia có ngành điện hạt nhân.

Mới đây, chính phủ bất ngờ tuyên bố kế hoạch xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân trong vòng 5 năm, đồng thời yêu cầu phải có 2.400 kỹ sư hạt nhân lành nghề. Tuy nhiên, một cuộc rà soát kỹ lưỡng cho thấy, số lượng nhân lực ngành hạt nhân hiện có trên cả nước là cực kỳ ít ỏi, đến mức ngay cả khi cộng dồn tất cả lại có lẽ cũng chưa đủ để bố trí một kíp trực hoàn chỉnh cho một tổ máy duy nhất. Đó là còn chưa kể đến khung pháp lý, các quy trình an toàn và hệ thống quản lý chất thải hạt nhân, tất cả những điều này đều cần xây dựng lại từ con số không.

Tình hình càng trở nên khó xử hơn khi đội ngũ giảng viên có đủ trình độ cũng không còn. Trong bối cảnh này, có sinh viên nào sẵn sàng theo học ngành hạt nhân và dành 10 năm cho một chuyên ngành đặc thù mà chính phủ có thể đình chỉ bất cứ lúc nào? Cựu Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Toàn thừa nhận rằng ,Việt Nam đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt kép cả về số lượng lẫn chất lượng nhân lực trong các lĩnh vực then chốt như công nghệ lò phản ứng và an toàn bức xạ. Một nhà máy điện hạt nhân không thể vận hành chỉ với một nhóm nhỏ chuyên gia hạt nhân. Nó đòi hỏi một đội ngũ nhân lực kỹ thuật cao trong các lĩnh vực như cơ khí, vật liệu, điện khí, tự động hóa và khoa học môi trường. Đáng buồn thay, hệ thống giáo dục hiện nay của Việt Nam chưa thể cung cấp đầy đủ các nhân lực cần thiết.

Ông Tô Văn Trường – một chuyên gia năng lượng Việt Nam – nhận định: “Mục tiêu xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân trong vòng 5 năm của chính phủ cho thấy quyết tâm chính trị mạnh mẽ. Tuy nhiên, xét từ góc độ khoa học và thực tiễn, đây là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn với nhiều trở ngại, chẳng hạn như tình trạng thiếu hụt nhân lực chuyên môn. Đây là ngành công nghệ cao, đòi hỏi đội ngũ chuyên gia có kiến ​​thức sâu rộng về thiết kế, xây dựng, vận hành, bảo trì và an toàn. Hiện nay, Việt Nam chưa có đủ nhân lực đáp ứng được yêu cầu này.” Ông cũng nhấn mạnh rằng: “Ngay cả khi có đủ nguồn lực, mỗi nhà máy điện hạt nhân trên thế giới cũng mất trung bình từ 7 đến 10 năm để hoàn tất toàn bộ các giai đoạn từ quy hoạch, cấp phép, xây dựng, thử nghiệm đến vận hành. Điều này cho thấy, nếu không có sự chuẩn bị đầy đủ về nhân lực, công nghệ và chính sách, mục tiêu 5 năm rất khó có thể đạt được.”

Đối tác duy nhất có thể “giải nguy” lại bị chính Việt Nam khước từ

Trên thực tế, có một quốc gia đủ khả năng đáp ứng tiến độ gần như phi lý này, đồng thời có thể hoàn tất dự án với tốc độ nhanh chóng, hiệu quả cao và chi phí thấp – đó là Trung Quốc.

Năng lực xây dựng nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc hiện ở mức nào? Theo cơ sở dữ liệu lò phản ứng của Hiệp hội Hạt nhân Thế giới, trong 10 năm qua, Trung Quốc trung bình mất khoảng 6 năm để xây dựng một lò phản ứng, đứng đầu thế giới. Nga theo sát phía sau với 6-7 năm, Hàn Quốc mất 8 năm, còn Pháp thì sao? Kỷ lục hiện tại là 18 năm, nếu tính cả việc xây dựng tổ máy Flamanville 3 ở Normandy từ năm 2007, nhưng đến nay vẫn chưa thể coi là đã hoàn thành. Trong khi đó, lò phản ứng Hoa Long 1 (Hualong One) đầu tiên được khởi công vào tháng 5/2015 và đã đi vào vận hành thương mại từ tháng 1/2021.

Không chỉ dẫn đầu về tiến độ, Trung Quốc còn có lợi thế rõ rệt về chi phí. Nghiên cứu năm 2024 của một nhóm nghiên cứu độc lập tại Úc cho thấy, các dự án điện hạt nhân của Trung Quốc và Hàn Quốc mang lại giá trị tốt nhất so với chi phí bỏ ra, tiếp theo là Nga, trong khi Pháp là lựa chọn đắt đỏ nhất. Về tài chính, Trung Quốc có thể cung cấp các khoản vay với lãi suất từ 1-6%, linh hoạt hơn so với mức 3-4% của Nga, đặc biệt là khi Nga thường bao gồm các điều khoản cho phép giữ lại một phần cổ phần của dự án. Trong khi đó, Pháp không chỉ yêu cầu quyền kiểm soát, mà còn thường gắn liền với rủi ro chậm tiến độ và đội vốn.

Xét thuần túy về mặt kỹ thuật và kinh tế, Trung Quốc rõ ràng là giải pháp tối ưu và Việt Nam cũng nhận thức rõ điều này. Vấn đề là Hà Nội chưa từng có ý định “chỉ tính toán đơn thuần từ góc độ kinh tế”. Trong cách nhìn của giới hoạch định chính sách, các nhà máy điện hạt nhân không chỉ là cơ sở sản xuất điện, mà còn là một quân bài địa chính trị quan trọng. Họ sẵn sàng chấp nhận việc dự án bị chậm trễ hơn, tốn kém hơn, hay thậm chí là đối diện nguy cơ thất bại, còn hơn là để Trung Quốc nắm giữ lĩnh vực mang tính sống còn này. Do đó, Hà Nội đã theo đuổi một chiến lược cân bằng đầy phức tạp: Đàm phán vay vốn với Nga, tìm kiếm công nghệ từ Pháp, đồng thời cũng tiếp cận cả Hàn Quốc. Gần đây, họ thậm chí còn bắt đầu nghiên cứu lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR) của Mỹ. Mục tiêu rất đơn giản: Có thể dựa vào bất kỳ ai, nhưng không được phụ thuộc vào Trung Quốc.

Điều này cũng thể hiện rõ trong hợp tác điện lực xuyên biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam. Hiện giữa hai nước chỉ có một tuyến truyền tải nối Phòng Thành Cảng ở Quảng Tây và tỉnh Quảng Ninh của Việt Nam. Năm 2024, sản lượng điện Trung Quốc xuất sang Việt Nam chỉ đạt 5-7,5 tỷ kWh, tương đương 2-3% tổng lượng điện tiêu thụ hằng năm của Việt Nam. Tập đoàn Lưới điện phương Nam Trung Quốc có lượng lớn điện sạch dư thừa, nhưng Việt Nam vẫn ưu tiên nhập khẩu thủy điện từ Lào, dù giá thành cao hơn và độ ổn định thấp hơn.

Trên thực tế, Việt Nam đã học hỏi mô hình phát triển của Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực, từ đặc khu kinh tế, khu công nghiệp, mô hình thương mại điện tử đến cách triển khai hạ tầng. Thậm chí, từng có văn bản hành chính cũng được cho là sao chép trực tiếp từ mẫu tiếng Trung. Điều này cho thấy, họ hiểu rõ rằng cách tiếp cận của Trung Quốc có hiệu quả. Tuy nhiên, đối với các dự án như điện hạt nhân, đường sắt cao tốc hay 5G, thái độ của họ lại thay đổi hoàn toàn: Dù công nghệ có hoàn thiện, tiến độ xây dựng có đáng tin cậy hay giá thành có phải chăng đến mấy, chỉ cần là của Trung Quốc thì sẽ lập tức bị loại bỏ. Họ thà chờ người Pháp trì hoãn hàng thập kỷ hoặc nhìn người Nhật Bản rút lui còn hơn là để Trung Quốc nhập cuộc.

Tuy nhiên, thực tế lại không vận hành theo các tính toán ngoại giao. Khi các nhà máy phải ngừng hoạt động vì thiếu điện, các công ty nước ngoài hủy đơn đặt hàng do cắt điện và người dân phải sống trong bóng tối dưới cái nóng oi bức, chẳng ai còn quan tâm đến việc “cân bằng chiến lược” được thực hiện khéo léo đến đâu. Việc đặt nghi kỵ chính trị lên trên nhu cầu dân sinh và sự phát triển rốt cuộc không khiến các chính trị gia phải trả giá trực tiếp, mà sẽ làm thu hẹp cơ hội phát triển của cả quốc gia.

Nếu Việt Nam tiếp tục lao trên con đường mâu thuẫn “vừa muốn học hỏi, vừa lo sợ phụ thuộc”, điều chờ đợi họ có thể không phải là “một Trung Quốc tiếp theo”, mà là một lần nữa bỏ lỡ cơ hội. Giấc mơ điện hạt nhân bị đình trệ có lẽ mới chỉ là bước khởi đầu, điều đáng buồn hơn là việc phải chứng kiến các cơ hội phát triển lần lượt tắt lịm trong bóng tối của những đợt cắt điện kéo dài.