#159 – Ảnh hưởng của Trung Quốc đối với chế độ Pol Pot

Print Friendly, PDF & Email

ieng4

Nguồn: John D. Ciorciari (2013). “China and the Pol Pot Regime”, Cold War History,  Vol. 14, No. 2, pp. 215-235.

Biên dịch và Hiệu đính: Nguyễn Thị Nhung

Bài liên quan: Bồi thường cho nạn nhân bị xâm phạm nhân quyền nghiêm trọng: Trường hợp Campuchia

Quá khứ từng ủng hộ chế độ Pol Pot đến nay vẫn là một trong những khía cạnh nhạy cảm nhất trong lịch sử Chiến tranh Lạnh của Trung Quốc. Từ tháng 4/1975 đến tháng 1/1979, Trung Quốc là đối tác bên ngoài chính yếu của chính phủ Campuchia Dân chủ tàn bạo. Chính phủ Trung Quốc từ lâu đã luôn cố hạ thấp mối quan hệ thân cận này, trong khi giới lãnh đạo Campuchia ngày nay lại mong muốn tái lập mối ràng buộc gần gũi với Bắc Kinh.[1] Tuy nhiên, chủ đề này một lần nữa lại được gợi lên khi một tòa án do Liên Hợp Quốc hậu thuẫn mở phiên xét xử các cựu quan chức Khmer Đỏ tại Phnom Penh. Vào năm 2009, thời điểm phiên tòa đầu tiên bắt đầu, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Khương Du (Jiang Yu) đã lên tiếng bảo vệ rằng nước này luôn thiết lập “các mối quan hệ hữu nghị thông thường” với các chính phủ của Campuchia và chế độ Pol Pot chỉ là một trong số đó.[2]

Vào năm 2010, đại sứ Trung Quốc ở Campuchia thừa nhận rằng Trung Quốc đã từng cung cấp viện trợ lương thực nhưng quả quyết “chính phủ Trung Quốc chưa bao giờ tham gia hay can thiệp vào hoạt động chính trị của Campuchia Dân chủ”.[3] Một số nhân vật phe đối lập của Campuchia đã lên tiếng phủ nhận ý kiến này, buộc tội Trung Quốc chịu trách nhiệm một phần đối với các vụ giết chóc, và có trường hợp họ còn tuyên bố rằng “Trung Quốc nợ người dân Campuchia một lời xin lỗi.”[4]

Đây không phải là lần đầu tiên vai trò của Trung Quốc được đưa ra xem xét trong phòng xử án. Vào năm 1979, nhà nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Việt Nam hậu thuẫn đã thành lập một tòa án xét xử Pol Pot và ngoại trưởng Campuchia Dân chủ Ieng Sary. Phiên tòa này đã quy hầu hết trách nhiệm về tội ác của Khmer Đỏ lên Bắc Kinh, rõ ràng với mục đích làm suy giảm uy tín của Bắc Kinh khi Chiến tranh Đông Dương lần ba (hay chiến tranh biên giới Việt-Trung – ND) bước vào giai đoạn khốc liệt. Phán xét của tòa án cho rằng Trung Quốc “đã tăng cường ồ ạt hỗ trợ quân sự và thiết lập một mạng lưới cố vấn dày đặc để giám sát mọi hoạt động” của lãnh đạo Campuchia Dân chủ, “xúi giục bè lũ này tiến hành một chính sách diệt chủng tàn khốc chống lại đồng bào chúng ta… [và] cả cuộc chiến tranh xâm lược chống lại Việt Nam,” đồng thời đóng vai trò “kẻ chủ mưu đáng căm phẫn của kế hoạch này.”[5] Dù những phiên tòa ngày nay hẳn sẽ không đưa ra những định kiến tương tự chống lại Bắc Kinh, nhưng câu hỏi về bản chất và mức độ ảnh hưởng của Trung Quốc lên nhà nước Campuchia Dân chủ vẫn còn bỏ ngỏ.

Bài viết này sẽ cố gắng góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ Trung Quốc – Campuchia dựa vào việc nghiên cứu bản chất của quan hệ đồng minh ngầm giữa hai nước, cũng như tìm hiểu mức độ tác động của những điều khoản của mối quan hệ thân hữu này lên ảnh hưởng của Trung Quốc trên thực tế. Để làm được điều này, bài viết sẽ tận dụng những cuộc phỏng vấn chi tiết với các nhân vật chóp bu của Khmer Đỏ, những người đã sát cánh làm việc với các quan chức Trung Quốc giai đoạn 1975-1979, cũng như các hồ sơ chính thức của Campuchia Dân chủ chưa từng được trích dẫn trước đây lấy từ Trung tâm Dữ liệu Campuchia (DC-Cam) và những lời khai gần đây trong các phiên tòa xét xử Khmer Đỏ. Dù những nguồn tư liệu mới này gần như không bổ sung thêm thông tin mới nào về các quá trình hoạch định chính sách trong nội bộ Khmer Đỏ hay Bộ Chính trị Trung Quốc, nhưng chúng giúp chúng ta có thêm những hiểu biết quan trọng về việc mối quan hệ đồng minh ngầm đã được hai bên nhận thức và triển khai trên thực tế như thế nào.

Bằng chứng cho thấy quan hệ đối tác này rất phức tạp, trong đó nổi bật là yếu tố nghi ngờ lẫn nhau, và được hai bên duy trì phần lớn là do có chung những mục đích chiến lược và hợp tác thực dụng hơn là gắn bó về tư tưởng. Trung Quốc đã thiết lập tầm ảnh hưởng to lớn trong lĩnh vực hành chính và kỹ thuật chuyên môn tại các địa điểm trọng yếu trên khắp Campuchia. Tuy nhiên, nhiều minh chứng cho thấy khả năng tác động của Trung Quốc lên các chính sách cấp cao về an ninh cũng như đối nội của Khmer Đỏ là không lớn. Một số cán bộ phía Trung Quốc không đồng ý với các chính sách của Campuchia Dân chủ và đã thúc giục phải tiết chế lại, nhưng giới lãnh đạo nặng tư tưởng bài ngoại của nhà nước này lại kịch liệt bảo vệ quyền tự quyết của mình, khiến phía Bắc Kinh đành phải hành xử thật cẩn trọng, thậm chí ngay cả khi chính sách mù quáng và tàn khốc của nhà nước Campuchia Dân chủ đe dọa khả năng tồn tại của chính nước này, gây rắc rối cho hình ảnh của Trung Quốc với thế giới bên ngoài, và khiêu khích Việt Nam gây chiến. Nhận thức của Bắc Kinh về lợi ích chiến lược của mình đã khiến ảnh hưởng của Trung Quốc bị suy yếu và mở đường cho lãnh đạo Campuchia Dân chủ chi phối mối quan hệ này một cách đáng kể. Quan hệ Trung Quốc – Campuchia Dân chủ là trường hợp nghiên cứu điển hình của khả năng một nước yếu giành được ảnh hưởng và tự chủ ngay cả trong một mối liên minh không cân xứng,[6] và thậm chí đôi khi còn có thể gây phương hại đến đồng minh mạnh hơn của họ.[7] Những bài học này có ý nghĩa rất lớn cho quan hệ đối ngoại của Trung Quốc ngày nay.

Cố gắng thúc đẩy quan hệ đối tác

Sau chiến thắng vào tháng 4/1975, các nhà cách mạng Khmer Đỏ đã gần như tự động tìm đến Trung Quốc. Họ dĩ nhiên hắt hủi phương Tây. Liên Xô dù có quan hệ thân hữu với Bắc Việt Nam nhưng trước đó đã không hỗ trợ thực sự hào phóng cho Khmer Đỏ trong cuộc nội chiến Campuchia, và thậm chí đã từng có cân nhắc một thỏa thuận hòa bình năm 1972 đối với Đông Dương mà nếu thành hiện thực chắc chắn sẽ giúp chế độ cánh hữu Lon Nol tiếp tục nắm giữ quyền lực tại Campuchia.[8] Ngay sau khi tiến vào Phnom Penh, quân Khmer Đỏ đã đổ về đại sứ quán Liên Xô, bắt trói các nhà ngoại giao Xô-viết và dồn tống họ vào đại sứ quán Pháp để trục xuất về nước cùng các vị khách phương Tây không còn được chào đón khác.[9] Lãnh đạo Khmer Đỏ cũng gạt phăng những lời đề nghị đàm phán xây dựng một “mối quan hệ đặc biệt” từ phía Hà Nội, do lo ngại Việt Nam âm mưu áp đảo Campuchia và lôi kéo đất nước họ vào một Liên bang Đông Dương.[10] Thay vào đó, lực lượng Campuchia Dân chủ còn tấn công vào hai đảo tranh chấp mà Việt Nam đang nắm giữ trên Vịnh Thái Lan vào đầu tháng 5, khiến Việt Nam đánh chiếm một hòn đảo của Campuchia và khởi tạo bầu không khí đối đầu hết sức căng thẳng giữa hai nước sau đó.[11]

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (sau đây gọi tắt là Trung Quốc) cũng không hề sở hữu một “lý lịch” trong sạch khi nói đến vấn đề giúp đỡ những người cộng sản Campuchia. Trung Quốc từng chống lưng cho Hoàng thân Norodom Sihanouk chống lại quân nổi dậy Khmer Đỏ suốt những năm 1960, không nhiệt tình ủng hộ quân nổi dậy Campuchia (tức Khmer Đỏ – NHĐ) sau khi Lon Nol tiếm quyền vào năm 1970, và từng nỗ lực xích lại gần Hoa Kỳ vào giai đoạn 1971-1972.[12] Tuy nhiên, Khmer Đỏ lại chọn cởi mở với Bắc Kinh, vì lý do chủ nghĩa Mao gần với thiên hướng tư tưởng của họ hơn cả, bên cạnh đó còn bởi họ vẫn chưa sẵn sàng để có thể tự đi trên đôi chân của mình. Trung Quốc cũng nhanh chóng chúc mừng Khmer Đỏ, nhưng khôn ngoan nhấn mạnh trong các thông cáo liên quan rằng chính phủ mới sẽ được dẫn dắt dưới tay Sihanouk – một người bạn thân tín của Trung Quốc vốn đã sống tại Bắc Kinh kể từ khi bị Lon Nol đảo chính vào năm 1970.[13]

Giới lãnh đạo Campuchia Dân chủ đã bổ nhiệm Sihanouk vào trị trí nguyên thủ quốc gia trên danh nghĩa trong một Đại hội Quốc gia đặc biệt họp từ ngày 25 đến 27 tháng 4 nhưng cũng phát đi tín hiệu rõ ràng rằng họ sẽ không làm một con rối phục tùng dưới ô dù bảo trợ của bất cứ thế lực bên ngoài nào:

“Lập trường chiến lược lâu nay của đất nước Campuchia chúng tôi là kiên định theo đuổi chính sách độc lập, hòa bình, trung lập, và không liên kết. Nhân dân Campuchia chắc chắn sẽ không cho phép bất cứ một quốc gia nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình, đồng thời kiên quyết và dứt khoát phản đối các thế lực bên ngoài có hành động can thiệp dưới mọi hình thức vào những vấn đề nội bộ của Campuchia.”[14]

Tuyên bố ngăn cấm quốc gia khác đóng quân ở đây là một lời cảnh cáo dành cho Việt Nam khi vào thời điểm đó, vẫn còn khoảng 20.000 bộ đội Việt Nam trên lãnh thổ Campuchia,[15] nhưng bên cạnh đó lãnh đạo Campuchia Dân chủ cũng ám chỉ Trung Quốc khi đề cập về vấn đề can thiệp nội bộ. Bắc Kinh rõ ràng đã nắm bắt được tín hiệu ấy. Vào ngày 13/5, một bản tin của Tân Hoa Xã đã trích gần như nguyên văn tuyên bố này,[16] và Nguyên soái Diệp Kiếm Anh đã phát biểu rằng Trung Quốc sẽ “luôn một lòng ủng hộ cuộc đấu tranh chính đáng của nhân dân Campuchia cho … công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.”[17]

Nhưng thực tế Khmer Đỏ nhận thức được rằng họ cần phải nhận viện trợ nước ngoài, chủ yếu là từ Trung Quốc.[18] Vào ngày 19/4, trong khi lính Khmer Đỏ đang tiến hành tản cư Phnom Penh, Ieng Sary đã công du đến Bắc Kinh và đàm phán với Trung Quốc về một thỏa thuận cung cấp 13.300 tấn vũ khí và sẽ vận chuyển chúng qua cảng Kampong Saom, thay vì bằng đường bộ qua Việt Nam.[19] Bốn ngày sau, ông ta trở lại Phnom Penh cùng một nhóm quan chức và chuyên viên kỹ thuật người Trung Quốc, đem theo các thiết bị liên lạc và những trang bị tối cần thiết cho việc thiết lập một chính phủ mới.[20] Đầu tháng 5, có thông tin cho thấy Pol Pot đã bí mật đến Bắc Kinh và củng cố những cam kết về viện trợ kinh tế, hỗ trợ kỹ thuật, và huấn luyện quân sự từ Trung Quốc. Đổi lại, quốc gia Đông Nam Á này sẽ ủng hộ tư tưởng “Ba Thế giới” của Trung Quốc và hậu thuẫn Bắc Kinh chống lại Matxcơva – một tín hiệu sớm cho thấy mối quan hệ này sẽ đòi hỏi yếu tố có đi có lại ở một mức độ nhất định.[21]

Cũng trong khoảng thời gian này, đại sứ quán Trung Quốc ở Phnom Penh đã mở cửa trở lại, nhưng lời chứng gần đây trong phiên tòa xét xử Khmer Đỏ của Liên Hợp Quốc, hay còn được biết đến với cái tên chính thức là Tòa án quốc tế đặc biệt xét xử tội ác của Khmer Đỏ (ECCC), đã xác nhận thông tin rằng chế độ Campuchia Dân chủ khi đó chào đón các nhà ngoại giao Trung Quốc bằng thái độ nghi ngờ. Vào tháng 6/2012, cựu quan chức Khmer Đỏ Khoeum Ngorn đã khẳng định không lâu sau chiến thắng của Khmer Đỏ, ông cùng năm cán bộ khác đã được điều vào làm việc trong đại sứ quán Trung Quốc, với nhiệm vụ là “theo sát các vị khách.”[22] Ông giải thích “chúng tôi không được phép nói chuyện với khách về chủ đề chính trị,” và “chúng tôi không thể tự do đi lại xung quanh.” Các cán bộ được huấn luyện phải “cảnh giác”, thận trọng với nguy cơ có “các đặc vụ CIA trà trộn vào bên trong,” hạn chế tối đa trao đổi với người Trung Quốc, và luôn báo cáo giám sát lẫn nhau. Bất cứ sai sót nào cũng sẽ dẫn đến hậu quả là bị “điều chuyển ra tuyến sau” hoặc “đưa đi cải tạo”, cả hai đều bao gồm một thời gian dài lao động cưỡng bức trên các cánh đồng, hay thậm chí tệ hơn.[23] Lời khai của Khoem đã bảo chứng cho những báo cáo trước đây của các quan chức Trung Quốc khác từng lưu trú tại đây thời kỳ Campuchia Dân chủ. Họ cho biết khả năng tiếp cận thông tin về những diễn biến ngay bên ngoài nơi làm việc của họ, bao gồm cả những vụ tàn sát, là hết sức hạn chế và phải dựa vào những tin đồn nghe ngóng được cũng như các báo cáo đã được lược giảm nhiều phần từ những đồng sự và phụ tá Campuchia.[24]

*Clip: Phim tài liệu “The Killing Field” (Cánh đồng chết)

Những dấu hiệu rắc rối đầu tiên

Mặc dù đã áp dụng các biện pháp kiềm chế lên quan chức Trung Quốc, nhưng rõ ràng những thay đổi chính sách theo hướng cực đoan đang diễn ra. Các nhà ngoại giao Trung Quốc khi đặt chân đến Phnom Penh nhận ra thủ đô này gần như bị bỏ hoang và biết được rằng giới lãnh đạo Campuchia Dân chủ đã cho tiêu hủy loại tiền tệ mà Trung Quốc trước đó giúp in cho họ.[25] Thái độ của Campuchia Dân chủ còn kéo Trung Quốc vào một cuộc khủng hoảng ngoại giao không mong muốn khi lực lượng vũ trang của Khmer Đỏ đã bắt giữ một tàu hàng không trang bị vũ khí có tên U.S.S. Mayaguez trên vùng biển quốc tế vào giữa tháng 5. Vụ việc này đã đẩy Trung Quốc lâm vào thế chênh vênh như bước trên dây, giữa một bên là phải bảo vệ đồng minh mới của mình và bên kia là tránh bị cuốn vào một cuộc tranh chấp với Hoa Kỳ.[26]

Thay vì gây sức ép bắt Khmer Đỏ phải tiết chế chính sách, Trung Quốc đã quyết định đẩy nhanh hỗ trợ cho đồng minh còn non yếu của mình, gửi các tàu quân sự đến cảng Kampong Saom ngay sau vụ Mayaguez.[27] Theo Tang Ly, cựu cán bộ Campuchia Dân chủ, viện trợ kinh tế cũng bắt đầu đổ về dưới dạng gạo, xăng dầu, và các sản phẩm khác.[28] Những con tàu từ Trung Quốc chở 200.000 – 400.000 tấn hàng hóa viện trợ bắt đầu cập cảng đều đặn vào mỗi tháng.[29] Những chuyến hàng đầu tiên bao gồm lượng lớn gạo cùng những mặt hàng dân dụng, và đến giữa mùa hè năm đó, theo báo cáo cho thấy, Trung Quốc cũng bắt đầu cung cấp vũ khí.[30] Các lãnh đạo Trung Quốc nhìn nhận việc ủng hộ cho Campuchia là một biện pháp phòng bị quan trọng đề phòng mối quan hệ đang trở nên ngày một xấu đi với Việt Nam – đồng minh một thời của Trung Quốc nhưng đã nghiêng về phía Matxcơva trong những năm cuối cuộc Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (hay Kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam – ND) – và đồng thời chống lại cả nguy cơ bá quyền của Việt Nam ở Đông Dương.[31]

Mao Trạch Đông đã tỏ ra lo ngại về các chính sách của Khmer Đỏ. Trong một cuộc họp tại Bắc Kinh vào tháng 6, ông đã cảnh báo Pol Pot: “Anh không nên sao chép y hệt kinh nghiệm của Trung Quốc, mà hãy suy nghĩ theo hoàn cảnh riêng mình. Theo lời Mác, lý thuyết của ông ấy là một tôn chỉ dẫn đường cho hành động, nhưng không phải là một học thuyết.” Nhưng bên cạnh lời nhắc nhở ấy, Mao cũng khen ngợi Pol Pot: “chỉ một lần thực hiện mà ông đã đạt được điều mà tất cả chúng tôi đã thất bại.”[32] Mao cũng cam kết cung cấp viện trợ quân sự và kinh tế trị giá đến một tỷ đô-la, bao gồm 20 triệu đô-la viện trợ không hoàn lại tức thời – gói viện trợ lớn nhất trong lịch sử của Trung Quốc.[33]

Bắc Kinh một lần nữa lặp lại phản ứng tương tự vào tháng 8, lúc này các báo cáo về những vụ thảm sát ở Campuchia đã xuất hiện ngày càng nhiều. Thủ tướng Chu Ân Lai, vốn nổi tiếng là người thực tế, khi tiếp đoàn lãnh đạo Campuchia Dân chủ bên giường bệnh đã nhắc nhở những quan chức hàng đầu của họ là Khieu Samphan and Ieng Thirith:

“Các anh phải hết sức cẩn thận, vì con đường đi lên chủ nghĩa cộng sản rất chông gai và nguy hiểm. Nếu các anh cố tình bỏ qua những phương cách khôn khéo và thận trọng, thì chắc chắn sẽ khiến nhân dân mình phải hứng chịu một tấm thảm kịch… Chủ nghĩa cộng sản phải như một món quà các anh dâng tặng người dân, món quà tự do và tự chủ toàn vẹn.”[34]

Xét theo cam kết của Trung Quốc trước đó về không can thiệp nội bộ, thì lời cảnh báo của Chu Ân Lai là thẳng thừng nhưng cũng không mấy hiệu quả. Theo lời của Sihanouk, nhân chứng có mặt ngày hôm đó, Khieu Samphan và Ieng Thirith chỉ đáp lại bằng “một nụ cười đầy hoài nghi và trịch thượng.”[35] Mao cũng nhắc nhở những vị khách Campuchia về những mối nguy của “đấu đá nội bộ”[36] – một cách nói tránh ám chỉ chính sách của Campuchia Dân chủ nhằm gạt Sihanouk ra rìa quyền lực, thải hồi các cựu binh sĩ của Lon Nol trước đây đã đào ngũ tham gia cách mạng, và tàn sát hoặc tống giam những cán bộ thân Việt Nam.[37] Nouth Choeum, thư ký báo chí của Sihanouk cũng khẳng định: “Phía Trung Quốc tỏ rõ lo ngại. Họ nói Khmer Đỏ đã “quá hấp tấp… [Khmer Đỏ] không có sự hậu thuẫn của người Trung Quốc, những người còn hơn mọi nhà hiện thực chủ nghĩa về mặt tiến hành cách mạng.”[38]

Dù không được ban lãnh đạo Campuchia Dân chủ nhân nhượng nhiều về chính sách nội bộ, nhưng Trung Quốc lại giành được hầu như toàn bộ nhân nhượng về các vấn đề đối ngoại. Vào tháng 8, Khieu Samphan đã cùng những đồng sự phía Trung Quốc ký kết một thông cáo chung “phản ánh triệt để đường lối quốc tế của Trung Quốc hiện nay” – ám chỉ sự ủng hộ của Khmer Đỏ dành cho các nội dung cốt lõi trong chính sách đối ngoại “quốc tế chủ nghĩa” của Trung Quốc.[39] Khmer Đỏ cũng bất đắc dĩ đồng ý tiến hành những biện pháp đối ngoại thực dụng chống lại ảnh hưởng của Việt Nam, ví dụ như theo đuổi chính sách xích lại gần Thái Lan hoặc thiết lập đường dây liên lạc với Washington.[40] Ngay cả trong lĩnh vực đối ngoại, các quan chức Campuchia Dân chủ tiếp tục khẳng định sự độc lập, chấp nhận một chính sách chống chủ nghĩa đế quốc mạnh mẽ nhưng từ chối ủng hộ bất cứ phe nào trong số hai cường quốc cộng sản đang cạnh tranh lẫn nhau.[41]

Xét về những nỗ lực khuyến khích kiềm chế nội bộ Campuchia, Trung Quốc ít thành công hơn. Trung Quốc đã thuyết phục các lãnh đạo Campuchia Dân chủ để Sihanouk quay về nước, với hy vọng ông có thể tạo được ảnh hưởng ôn hòa, thúc đẩy tính chính danh quốc tế của chế độ này, và nâng cao uy thế của Bắc Kinh nhằm đối trọng với những nhân tố thân Hà Nội trong chế độ Campuchia Dân chủ.[42] Trở lại vào tháng 9, Sihanouk đã bày tỏ thái độ bất đồng với “chính sách tàn bạo của Khmer Đỏ” nhưng thừa nhận “Tôi phải hy sinh bản thân mình vì danh dự của Trung Quốc và ngài Chu Ân Lai, những ân nhân đã giúp đỡ Campuchia và bản thân tôi rất nhiều.”[43] Tuy nhiên, chuyến trở về của Sihanouk lại không đem lại nhiều tác dụng ôn hòa như mong muốn, do Khmer Đỏ đã hầu như giam lỏng ông và trao cho ông một vai trò hữu danh vô thực trong chính phủ. Thay vào đó quyền lực lại nằm trong tay Ủy ban Thường vụ Đảng Cộng sản Campuchia mới thành lập, bao gồm Pol Pot, Nuon Chea và một số nhân vật khác, trong đó có cả những bị cáo của tòa án ECCC là Khieu Samphan, Ieng Sary, and Ieng Thirith.[44]

Đối mặt với thái độ nghi ngờ và đôi khi cả thách thức công khai từ phía Khmer Đỏ, Trung Quốc vẫn tiếp tục rót viện trợ vào đây. Không lâu sau thông cáo tháng 8 được ký kết, một đội ngũ chuyên gia từ Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã đến Campuchia để tiến hành một cuộc “khảo sát sâu rộng” các nhu cầu quốc phòng của Campuchia Dân chủ.[45] Vào tháng 10, Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc Wang Shanrong đã đến Phnom Penh và công bố một dự thảo kế hoạch viện trợ quân sự.[46] Trao đổi thương mại giữa hai nước cũng tăng nhanh, và theo ước tính của một cựu quan chức Campuchia Dân chủ làm việc tại Kampong Saom, có đến 80% hàng hóa nhập khẩu của Campuchia là đến từ Trung Quốc trong giai đoạn 1975-1976.[47] Một cựu quan chức khác của Bộ Thương mại đã báo cáo rằng để đổi lấy máy móc các loại, Campuchia Dân chủ thường xuyên chuyển đến Trung Quốc các chuyến hàng lớn gồm gạo, ngũ cốc thành phẩm, và những nguyên vật liệu khác.[48]

Đến mùa thu năm 1975, bản chất quan hệ Trung Quốc-Campuchia Dân chủ đã định hình rõ. Giới lãnh đạo bài ngoại của Campuchia có thể sẵn sàng chấp nhận viện trợ về kinh tế và kỹ thuật của Trung Quốc nhưng kiên quyết bảo vệ đến cùng quyền tự do quyết sách của mình. Về phía Trung Quốc, họ có thể gây sức ép một cách mềm mỏng để tiết chế những hành động đi quá giới hạn của Khmer Đỏ, nhưng sẽ không mạo hiểm thử độ gắn kết của mối quan hệ này bằng đe dọa cắt viện trợ. Robert Ross đã lập luận, Trung Quốc có lợi ích đáng kể khi bắt tay Campuchia để tạo thành một đối trọng mạnh mẽ với mối liên minh Việt-Xô đang ngày một khởi sắc, và chính điều này đã dập tắt mọi phản ứng “choáng váng và tức giận” của Bắc Kinh trước sự tàn bạo của Khmer Đỏ.[49] Hành động của Trung Quốc đã hé lộ chính sách ưu tiên hàng đầu của Bắc Kinh khi đó: cố gắng giữ cho anh bạn đồng minh rắc rối không bị sụp đổ. Cách tiếp cận này đã giúp biến nhược điểm của Campuchia Dân chủ thành một nguồn ảnh hưởng hữu hiệu và khiến cho mọi phản ứng bất bình từ phía Trung Quốc dần mất đi trọng lượng.

Bề ngoài ủng hộ vô điều kiện

Vào tháng 2/1976, Wang Shanrong quay lại Phnom Penh và ký kết một thoả thuận viện trợ quân sự sâu rộng hơn mà Pol Pot đã khởi động đàm phán với Đặng Tiểu Bình từ tháng 6/1975. Theo như một tài liệu được đưa ra tại phiên tòa năm 1979, Wang đã thông báo với bộ trưởng quốc phòng của Campuchia Dân chủ là Son Sen rằng Trung Quốc có kế hoạch cung cấp 320 cố vấn quân sự; thiết bị radar, pháo phòng không, và một sân bay quân sự; bốn tàu hộ tống và tàu phóng ngư lôi; và thiết bị cho một trung đoàn tăng thiết giáp, trung đoàn thông tin, ba trung đoàn pháo binh dã chiến, và một tiểu đoàn cầu phao cho quân đội. Wang còn cho biết Trung Quốc sẽ đảm nhận trách nhiệm xây dựng một căn cứ hải quân, sân bay, kho đạn, và sẽ mở rộng một cơ sở sửa chữa vũ khí.[50] Hỗ trợ từ phía Trung Quốc bề ngoài có vẻ không kèm theo bất cứ điều kiện ràng buộc nào:

“Chính phủ Campuchia sẽ tùy ý quyết định việc sử dụng các nguồn cung cấp và thiết bị quân sự [của Trung Quốc] như thế nào và vào vấn đề gì. Trung Quốc sẽ không can thiệp, cũng không áp đặt bất cứ điều kiện hay đòi hỏi đặc quyền nào.”[51]

Vào tháng 2/2012, khai nhận tại phiên tòa ECCC xét xử chính mình, cựu Phó tổng bí thư của Đảng Cộng sản Campuchia Noun Chea đã nhấn mạnh vào tính chất phi điều kiện trong gói viện trợ từ Trung Quốc. Ông nói: “Trung Quốc đã hỗ trợ chúng tôi vũ khí,” chủ yếu tiếp tế các loại vũ khí hạng nhẹ, nhưng “không bao giờ bán vũ khí” cho Campuchia Dân chủ.[52] Ông bổ sung: “Không hề có hỗ trợ nào trong lĩnh vực chính trị, Trung Quốc chỉ viện trợ đơn thuần về kỹ thuật”, ví dụ như giúp sửa chữa các tuyến đường sắt, và “theo như tôi được biết, mọi viện trợ từ Trung Quốc, dù là về quân sự, hay quần áo nhu yếu phẩm” đều được cung cấp “mà không có bất kỳ điều kiện gì dưới mọi hình thức.”[53] Theo đó, lời khai của Nuon trùng khớp với những công bố chính thức của Trung Quốc, dù cả hai phía đều đã thổi phồng mức độ vô điều kiện thực chất của viện trợ.[54]

Viện trợ không ràng buộc trên danh nghĩa này vẫn không thể giúp Trung Quốc “miễn nhiễm” với thái độ ngờ vực của Campuchia Dân chủ. Vào năm 1976, hiến pháp mới của Campuchia Dân chủ đã tái nhấn mạnh rằng Campuchia Dân chủ sẽ phải đấu tranh chống lại “sự can thiệp dưới mọi hình thức từ bên ngoài vào các vấn đề nội bộ”, bao gồm những hình thức can thiệp “quân sự, chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, ngoại giao và cả trong vấn đề gọi là nhân đạo”.[55] Laurence Picq, bà vợ người Pháp của một quan chức Khmer Đỏ hồi tưởng lại: sau khi thông cáo Chu Ân Lai qua đời được phát trên Đài phát thanh Phnom Penh vào tháng 1/1976, các quan chức Khmer Đỏ đã đưa ra một chỉ thị nhắc nhở có nội dung: “Chúng ta phải dè chừng Trung Quốc. Tất nhiên, ta nợ họ rất nhiều, và đó là một nước lớn, nhưng họ đang muốn biến chúng ta thành vệ tinh của họ.”

Vấn đề về vai trò của Sihanouk trong chính phủ tiếp tục là một ngòi nổ căng thẳng tiềm ẩn. Vị hoàng thân này đã nổi giận vì bị giam lỏng, và biên bản một cuộc họp của Ủy ban Thường vụ Campuchia Dân chủ vào giữa tháng 3 cho thấy các lãnh đạo Khmer Đỏ đã tìm cách kiểm soát mối nguy này. Ủy ban kết luận “nếu Sihanouk từ chức, chúng ta sẽ không để ông ấy rời khỏi đất nước. Ông ta rời khỏi đây sẽ khiến cho tình hình trở nên khó khăn với Trung Quốc”, và quyết định sẽ tiếp tục giam lỏng Sihanouk tại gia.[56] Sự việc sau đó đã diễn ra đúng như vậy, nhưng Trung Quốc không hề tỏ ý phản đối, có lẽ là do những biến động nội bộ của bản thân Trung Quốc thời điểm này và do sự trỗi dậy của nhóm Tứ nhân bang cực đoan vào đầu tháng 4.[57]

Nhóm Tứ nhân bang, vốn thanh trừng Đặng Tiểu Bình và đứng ra cầm quyền trong suốt sáu tháng hỗn loạn trước khi Mao qua đời vào tháng 9 và Đặng trở lại chính trường vào tháng 10, tỏ ra cởi mở hơn các lãnh đạo tiền nhiệm đối với những chính sách cực đoan của Campuchia Dân chủ. Bên cạnh đó, Tứ nhân bang cũng có quan điểm cứng rắn hơn với Việt Nam, tiêu biểu như yêu cầu Tổng bí thư Lê Duẩn bác bỏ “chủ nghĩa bá quyền” của Liên Xô, và chính điều này đã đưa Hà Nội xích lại gần phía Matxcơva hơn và khiến Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào sự đối trọng của Campuchia.[58] Vào tháng 5, bất chấp những lo sợ đối với phe thân Hà Nội đang trỗi dậy trong nội bộ Campuchia Dân chủ,[59] Trung Quốc vẫn chấp thuận xây dựng một xưởng sản xuất vũ khí mới ở một vị trí bí mật gần Phnom Penh.[60] Vào tháng 6, theo bản báo cáo Đảng Cộng sản Campuchia gửi cho các chỉ huy quân sự, một quan chức sứ quán Trung Quốc đã cam kết Trung Quốc sẽ cho vận chuyển xấp xỉ 1.000 tấn thiết bị quân sự đến cảng Kampong Saom vào cuối tháng 6 hoặc đầu tháng 7, bao gồm hai mươi xe tăng, mười xe bán tăng (semi-tanks), xe quân sự, hàng chục ngàn viên đạn, các thiết bị truyền phát thông tin, vật liệu xây dựng các loại, và những trang thiết bị khác.[61]

Lãnh đạo Campuchia Dân chủ tiếp tục chào đón viện trợ từ Trung Quốc nhưng vẫn lo ngại bị phụ thuộc. Tại một phiên họp đảng vào tháng 6/1976, một quan chức cấp cao của Đảng Cộng sản Campuchia đã lên tiếng: “Nếu chúng ta không mạnh mẽ và không nhanh chóng phát triển nhảy vọt, những kẻ thù bên ngoài sẽ chỉ chực chờ nghiền nát chúng ta. Kẻ thù dù có ở dạng nào thì cũng đều muốn những nước nhỏ làm đầy tớ cho họ.”[62] Vào tháng 7, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Campuchia đã thông qua Kế hoạch Bốn Năm để định hướng chính sách quốc gia và lưu ý rằng cần phải có “sự giúp đỡ và hỗ trợ từ phía bạn bè quốc tế dành cho chúng ta”, nhưng cũng bổ sung thêm rằng:

“Trung Quốc có cung cấp viện trợ, nhưng cũng không nhiều nếu so với các nước khác. Đây là chính sách của Đảng ta. Nếu nước ta đi cầu khẩn các nước khác giúp đỡ, chắc chắn phần nào sẽ được đáp lại, nhưng làm vậy sẽ ảnh hưởng đến lập trường chính trị của chúng ta. Xin được viện trợ từ Liên Xô không dễ. Việt Nam vẫn đang phải quanh quẩn gần bên để xin xỏ Liên Xô. Chúng ta sẽ không theo chân họ. Nguyên nhân là bởi, nếu chúng ta xin họ giúp đỡ, dù ít hay nhiều, chắc chắn sẽ có những điều kiện chính trị kèm theo áp đặt lên nước ta.”[63]

Ngay cả trong giai đoạn nạn đói năm 1977, một quan chức Campuchia Dân chủ đã giải trình lý do chế độ miễn cưỡng tiếp nhận viện trợ lương thực từ bên ngoài như sau:

“Ăng-ca [“Tổ chức” Khmer Đỏ] không muốn nghe bất cứ điều gì về vấn đề hỗ trợ từ bên ngoài vì chúng ta có nguyên tắc cơ bản là luôn làm chủ vận mệnh của mình và dựa vào chính sức mạnh và nguồn lực của bản thân. Nếu chúng ta đã giải phóng đất nước của mình, thì đó chính xác là do đất nước này chưa từng được độc lập từ nhiều thế kỷ nay. Vậy tại sao chúng ta đã đánh mất độc lập và phẩm giá của mình? Đó là bởi vì ta đã quen phụ thuộc vào những nước khác. Các vị phải hiểu rằng những người ngoại quốc không bao giờ cho không ai cái gì. Lần này đã được hưởng trọn vẹn nền độc lập, chúng ta sẽ không đánh đổi tự do của mình để tiếp tục nhận viện trợ.”[64]

Các quan chức Trung Quốc cũng có lúc tức giận vì Khmer Đỏ từ chối nhận viện trợ và ý kiến cố vấn. Khi vị quan chức Trung Quốc Fang Yi đến Phnom Penh vào tháng 12/1976, ông khẳng định Khmer Đỏ “đã đi quá xa trong việc thúc đẩy việc tự lực cánh sinh”, và nhận thấy chế độ Campuchia Dân chủ thậm chí còn không đụng đến khoản viện trợ không hoàn lại trị giá 20 triệu đô-la hàng hóa mà Trung Quốc đã cung cấp từ năm 1975. Giới chức Trung Quốc tin rằng Khmer Đỏ đã “thực thi chủ nghĩa quân bình và tự cường quá đà.”[65]

Tuy nhiên, bản thân Trung Quốc nhìn chung vẫn hành xử theo nguyên tắc không can thiệp, một phần do kinh nghiệm lịch sử bị can thiệp của mình. Sophie Richardson đã lập luận rằng Năm Nguyên tắc cùng Tồn tại Hòa bình của Trung Quốc, trong đó nhấn mạnh vấn đề chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, và không can thiệp, “đã khiến Bắc Kinh phải đối xử với chế độ mới này như bao chế độ khác” và vẫn phải phản ứng dè dặt ngay cả khi những hành động tàn bạo và đường lối lãnh đạo đất nước sai lầm nghiêm trọng của Campuchia Dân chủ đã trở nên rõ ràng.[66] Việc Trung Quốc vẫn trung thành với phương châm này không chỉ đơn thuần là vấn đề nguyên tắc. Nó còn có tác dụng giúp Trung Quốc xây dựng ảnh hưởng tại các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những nước kiên quyết bảo vệ chủ quyền quý giá của mình. Cách tiếp cận này vẫn còn mang lại nhiều lợi ích cho Trung Quốc đến tận ngày nay.

Ảnh hưởng của Trung Quốc trên thực tế 

Tiếp tục bất chấp tư tưởng dần chia tách 

Đã đến mức không thể quay đầu

Kết luận

Download phần còn lại của văn bản tại đây: Anh huong cua TQ doi voi che do Pol Pot.pdf


[1] Ví dụ vào năm 2008, cảnh sát Campuchia đã phải giải tán đám đông các nhà hoạt động đang cố chống đối chính sách Trung Quốc tiếp tay cho cuộc xung đột đẫm máu ở Darfur. Nhóm biểu tình đã đốt một ngọn đuốc giống phiên bản của Olympic bên ngoài nhà tù khét tiếng cũ của Khmer Đỏ tại Tuol Seng. Ker Munthit, ‘Mia Farrow Confronts Cambodian Police’, Associated Press, 19 Jan. 2008.

[2] Ben Blanchard, ‘China Defends its Khmer Rouge Ties as Trial Opens’, Reuters, 17 Feb. 2009.

[3] Kong Sothanarith, ‘China Played No Role in Khmer Rouge Politics: Ambassador’, VOA Khmer, 22 Jan. 2010.

[4] Antoaneta Bezlova, ‘China Haunted by Khmer Rouge Links’, Asia Times Online, 21 Feb. 2009 (trích lời lánh đạo xã hội dân sự Lao Mong Hay). Tham khảo thêm Meas Sokchea, ‘Opposition Party President Puts Blame on China, Vietnam for Khmer Rouge’, Phnom Penh Post, 18 Apr. 2012.

[5] ‘Judgment of the People’s Revolutionary Tribunal, 19 Aug. 1979’, translated and reprinted in Howard J. De Nike, John Quigley, and Kenneth J. Robinson, Genocide in Cambodia: Documents from the Trial of Pol Pot and Ieng Sary (Philadelphia, PA: University of Pennsylvania Press, 2000), 545–46. Toà án viện dẫn những tư liệu cho thấy Trung Quốc có ca ngợi và cung cấp hỗ trợ quân sự cho Campuchia Dân chủ và chứng kiến các bản khai về các chuyện thăm của nhiều quan chức Trung Quốc tới khu vực các mộ tập thể. Sđd., 255–57, 408–11, 416–20.

[6] Tham khảo Robert O. Keohane, ‘The Big Influence of Small Allies’, Foreign Policy 2 (1971), 161–82; Robert L. Rothstein, Alliances and Small Powers (New York: Columbia University Press, 1968), 28–36; Annette Baker Fox, The Power of Small States: Diplomacy in World War Two (Chicago: University of Chicago Press, 1959), 180–82; và John D. Ciorciari, The Limits of Alignment: Southeast Asia and the Great Powers since 1975 (Georgetown University Press, 2010), 18–22.

[7] Tham khảo các nguồn: Jacob Bercovitch, ‘Superpowers and Client States: Analyzing Relations and Patterns of Influence’, in Moshe Efrat and Jacob Bercovitch, eds., Superpowers and Client States in the Middle East: The Imbalance of Influence (London: Routledge, 1991), 17–19; và Philip Windsor, ‘Superpowers and Client States: Perceptions and Interactions’, trong Sđd., 45–52.

[8] Eugene K. Lawson, The Sino-Vietnamese Conflict (New York: Praeger, 1984), 226, 298; và Norodom Sihanouk, War and Hope: The Case for Cambodia (New York: Pantheon, 1980), 97.

[9] Sihanouk, War and Hope, 96; và Francois Ponchaud, Cambodge Anne´e Zero (Paris: Juillard, 1977), 13–14.

[10] Khieu Samphan, Cambodia’s Recent History and the Reasons Behind the Decisions I Made (Phnom Penh: Ponleu Khmer Printing & Publishing House, 2004), 48–51; Stephen Heder, ‘The Kampuchean-Vietnamese Conflict’ in David W.P. Elliott, ed., The Third Indochina Conflict (Boulder, CO: Westview, 1981), 35; William Shawcross, Sideshow: Kissinger, Nixon, and the Destruction of Cambodia (New York: Simon and Schuster, 1979) 299; và Thu-huong Nguyen-vo, Khmer-Viet Relations and the Third Indochina Conflict (Jefferson, NC & London: McFarland & Company, 1992), 80.

[11] Nayan Chanda, Brother Enemy: The War After the War (New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1986), 33; DK Foreign Ministry, ‘Statement of the Government’, 1:149–50; và Vietnamese Foreign Ministry, Kampuchea Dossier, 2nd edn. (Hanoi: Vietnam Courier, 1978), 1:67–150.

[12]  Tham khảo Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua [The Truth About Relations Between Vietnam and China in the Past 30 Years] (Hanoi: Nhà xuất bản Sự thật, 1979), 61–62.

[13] Sophie Richardson, China, Cambodia, and the Five Principles of Peaceful Co-Existence (New York: Columbia University Press, 2009), 84.

[14] Karl D. Jackson, ‘The Ideology of Total Revolution’, in Karl D. Jackson, ed., Cambodia, 1975–1978: Rendezvous with Death (Princeton,NJ: Princeton University Press, 1989), 41 (dẫn FBIS IV,May 6, 1975,H2).

[15]‘After Victory: Pointers to a Neutral Future’, Far Eastern Economic Review, 9 May 1975, 20; và Peter A. Poole, ‘Cambodia 1975: GRUNK Regime,’ Asian Survey 16:1 (1976), 29.

[16] Robert S. Ross, The Indochina Tangle: China’s Vietnam Policy, 1975–1979 (New York: Columbia University Press, 1988), 45.

[17]Sđd. (trích dẫn từ FBIS-PRC, 21 Apr. 1975, A24-25). Tham khảo thêm Great Victory of the Cambodian People (Peking: Foreign Languages Press, 1975), 3.

[18] Ian Dunbar with Edith Lenart, ‘Following Peking’s Revolutionary Model’, Far Eastern Economic Review, 23 May 1975, 22–23.

[19] Philip Short, Pol Pot: Anatomy of a Nightmare (New York: Henry Holt, 2005), 301; Chanda, Brother Enemy, 18, 416 (note 14); và Speech by Wang Shangrong, deputy chief of the general staff of the Chinese People’s Liberation Army, 6 Feb. 1976, inProceedings of the People’s Revolutionary Tribunal (Aug. 1979), document 2.5.05.

[20]‘Indochina: Each to His Own’, Far Eastern Economic Review, 13 June 1975, 25; và Dunbar with Lenart, ‘Following’, 22–23.

[21] Tham khảo The Chinese Rulers’ Crimes Against Kampuchea (Phnom Penh: Ministry of Foreign Affairs, People’s Republic of Kampuchea, 1984), 76, 86; và Wilfred Burchett, The China-Cambodia-Vietnam Triangle (London: Zed Press, 1982), 165–68.

[22] Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia, Transcript of Trial Proceedings, Case No. 002/19-09-2007-ECCC/TC (7 June 2012), 97.

[23] Sđd., 98–103.

[24] Tham khảo các nguồn: Andrew Mertha, ‘Surrealpolitik: The Experience of Chinese Experts in Democratic Kampuchea, 1975–1979’, Cross-Currents No. 4 (Sept. 2012), 68. Tham khảo thêm Elizabeth Becker, When the War Was Over: Cambodia and the Khmer Rouge Revolution (New York: PublicAffairs, 1998), 278 (trong đó một nhà ngoại giao Trung Quốc kỳ cựu đã báo cáo rằng các nhà ngoại giao CHND Trung Hoa bị hạn chế tiếp cận và chịu canh gác nghiêm ngặt, nhưng cũng nói thêm: “Chúng tôi có nghe về các vụ bạo lực. Chúng tôi quả thực có phán đoán là ở khu vực nông thôn có nhiều người chết dưới tay các viên chức địa phương”)

[25] Richardson, China, 84–85; và Gottesman, Cambodia After the Khmer Rouge: Inside the Politics of Nation-Building (New Haven, CT: Yale University Press, 2003), 97.

[26] Trung Quốc không đáp ứng các yêu cầu của Mỹ về giúp đỡ họ giải thoát thủy thủ đoàn nhưng nói rõ nếu phía Mỹ can thiệp “thì chúng tôi chẳng thể làm gì”. Tham khảo Henry A. Kissinger, Years of Renewal (New York: Simon & Schuster, 1999), 554–64. Một nhà ngoại giao Trung Quốc sau này thuật lại rằng Trung Quốc đã “cảm thấy xấu hổ và thúc ép giới lãnh đạo Campuchia thả tàu. ‘Incident in the Gulf of Thailand’, Far Eastern Economic Review, 23 May 1975, 22. Trước khi điều đó xảy ra, lực lượng phía Mỹ đã tập hợp tiến hành một vụ giải cứu.

[27] ‘Indochina’, 25.

[28] Cuộc phỏng vấn của tác giả với cựu cán bộ Campuchia Dân chủ Tang Ly, làng Trach, Kampong Chen Cheung, Steung, Kampong Thom, 20/3/2003.

[29] Ben Kiernan, The Pol Pot Regime: Race, Power, and Genocide in Cambodia under the Khmer Rouge, 1975–79 (New Haven, CT: Yale University Press, 1996), 129 (dẫn phỏng vấn của Kiernan với Sok Sam, Kampong Sam, tháng 18/7/1980).

[30]Kiernan, The Pol Pot Regime, 128–30 (dẫn một nguồn thời kỳ Khmer Đỏ và các bài phỏng vấn với các cán bộ làm việc tại cảng vào năm 1975); và Justus M. Van der Kroef, ‘The Cambodian-Vietnamese War: Some Origins and Implications’, Asia Quarterly 2 (1979), 93.

[31]Ezra F. Vogel, Deng Xiaoping and the Transformation of China (Cambridge, MA: Harvard University Press, 2011), 272–73.

[32] Chanda, Brother Enemy, 16.

[33] Short, Pol Pot, 299–300; và David Chandler, Brother Number One: A Political Biography of Pol Pot, rev. edn. (Boulder, CO: Westview, 1999), 106.

[34] Richardson, China, 86 (dịch từ bản gốc tiếng Trung).

[35] Sihanouk, War and Hope, 86.

[36] ‘Deputy Prime Ministers Khieu Samphan and Ieng Sary Visit China’, Peking Review, 22 Aug. 1975, 3.

[37] Keng Piao, ‘Report on the Situation on the Indochinese Peninsula’, Issues and Studies (Taiwan) 17:1 (1981), 82. Bản báo cáo này, còn được biết đến với tên “Báo cáo của Cảnh Tiêu”, được coi là một tài liệu nội bộ của Trung Quốc do các điệp viên Đài Loan dịch. Trung Quốc đến này vẫn không thừa nhận tính chính thống của tài liệu này, dù học giả Brantly Womack khẳng định rằng ông “đã xác nhận tính xác thực của nó”. Brantly Womack, ‘Asymmetry and Systemic Misperception: China, Vietnam and Cambodia during the 1970s’, Journal of Strategic Studies 26:2 (2003), 119 (note 48).

[38] ‘Is Sihanouk’s Exile Coming to an End?’ Far Eastern Economic Review, 1 Aug. 1975, 22; và ‘Sihanouk’s Return,’ 10.

[39] Gareth Porter, ‘Vietnamese Policy and the Indochina Crisis’, in Elliott, The Third Indochina Conflict, 78 (dẫn New China News Agency, 19 Aug. 1975); và Min Chen, The Strategic Triangle and Regional Conflicts: Lessons from the Indochina Wars (Boulder, CO: Lynne Rienner, 1992), 132 (dẫn FBIS-PRC, 18 Aug. 1975).

[40] Về Thái Lan, tham khảo Mike Snitowsky, ‘Phnom Penh’s Trade Door Slightly Ajar’, Far Eastern Economic Review, 28 Nov. 1975, 20; và Poole, ‘Cambodia 1975’, 27. Vào tháng 9, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Chiao Kuan-hua đã thuyết phục quan chức Mỹ gặp gỡ Sarin Chhak, đại diện phía Campuchia Dân chủ tại Liên Hợp Quốc, và Sihanouk. Kenton J. Clymer, The United States and Cambodia, 1969–2000: A Troubled Relationship (London and New York: Routledge, 2004), 110.

[41]Kenneth M. Quinn, ‘Cambodia 1976: Internal Consolidation and External Expansion’, Asian Survey 17:1 (1977), 43–54 (có ghi chú các bài phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia Dân chủ Ieng Sary vào tháng 10/1975 tại hội nghị Phong trào Không Liên kết và tại Liên Hợp Quốc năm 1976).

[42] Áp lực của Trung Quốc dường như đã gây ảnh hưởng đến thế cân bằng trong một cuộc tranh luận giữa các lãnh đạo Khmer Đỏ. Tham khảo Chandler, Brother Number One, 106; và ‘The End of Prince Sihanouk’s ‘Holiday’, Far Eastern Economic Review, 5 Sept. 1975, 21.

[43]‘Sihanouk’s Return: Death of a Dream’, Far Eastern Economic Review, 24 Oct. 1975, 9.

[44] Điều lệ Đảng Cộng sản Campuchia, Điều 23, thông qua tại một Đại hội Đảng vào tháng 1/1976 (DC-Cam Doc. No. D21227); và ‘Permanent Committee Meeting’ (2 Nov. 1975), DC-Cam File No. D678; John D. Ciorciari with Youk Chhang, ‘Documenting the Crimes of Democratic Kampuchea’, in Jaya Ramji and Beth Van Schaack, eds., Bringing the Khmer Rouge to Justice: Prosecuting Mass Violence before the Cambodian Courts (London: Edwin Mellen Press, 2005), 221–306.

[45] Chanda, Brother Enemy, 17.

[46] Richardson, China, 86–87.

[47] Phỏng vấn của tác giả với Loy Unn, tại làng Trach, Kampong Chen Cheung, huyện Steung, tỉnh Kampong Thom, Campuchia, 21/3/ 2003.

[48] Phỏng vấn của tác giả với Kan, cựu quan chức Bộ Thương mại Campuchia Dân chủ, tại làng Trach, Kampong Chen Cheung, huyện Steung, tỉnh Kampong Thom, Campuchia, 21/3/ 2003.

[49] Ross, The Indochina Tangle, 74. Tham khảo thêm Chanda, Brother Enemy, 80 (lập luận rằng “dù có là mẫu thuấn về mặt đạo đức hay phản đối về tư tưởng thì cũng không thể làm lung lay tinh thần ủng hộ Trung Quốc dành cho Khmer Đỏ – một sự giúp đỡ dựa trên nên tảng vững chắc của chính trị thực dụng”)

[50] Trích dẫn từ một bài phát biểu của Wang Shang Rhung, Phó Tổng Tham mưu của Quân đội Trung Quốc, tại cuộc hội đàm với Son Sen, 6 /2/1976, De Nike et al., Genocide in Cambodia, 382–83. Tham khảo thêm Kiernan, The Pol Pot Regime, 132; và Richardson, China, 93.

[51] Short, Pol Pot, 301–02, dẫn từ một tài liệu lưu trữ của Việt Nam, Doc 32 (N442/T8300).

[52] Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia, Transcript of Trial Proceedings, Case No. 002/19-09-2007-ECCC/TC (8 Feb. 2012), 17.

[53] Sđd., 15–16.

[54] Nhằm nhấn mạnh rõ ràng tính chất quốc gia của cuộc cách mạng, cụm từ “chủ nghĩa xã hội” và “chủ nghĩa cộng sản” không xuất hiện trong Hiến pháp, trong đó lấy quốc kỳ là lá cờ màu đỏ với hình ảnh đền Angkor Wat màu vàng ở giữa, thay vì hình ảnh sao năm cánh của chủ nghĩa cộng sản. David Chandler, ‘The Constitution of Democratic Kampuchea (Cambodia): The Semantics of Revolutionary Change’, Pacific Affairs 49: 3(1976), 506–13.

[55] Laurence Picq, Au Dela` du Ciel: Cinq Ans Chez Les Khmers Rouges (Paris: Barrault, 1984), 52. Bà bổ sung thêm cách quan chức Khmer Đỏ đã trừng phạt bà trong một phiên họp tự phê năm 1977, nói với bà: “Bà thích Trung Quốc và đừng cố giấu giếm. Nhưng Trung Quốc không phải là bạn bè thực sự, họ muốn thuộc địa hóa chúng ta”. Sđd., 106.

[56]‘Biên bản cuộc họp Ủy ban Thường trực, 11/3/1976’, Documentation Centre of Cambodia Doc. Number D7562.

[57] Richardson, China, 94.

[58] Vogel, Deng Xiaoping, 273–75.

[59] Ross, The Indochina Tangle, 107–08.

[60] Kiernan, The Pol Pot Regime, 136.

[61] ‘Dear Brother Khieu and Brother Tom’, 12 June 1976, Documentation Centre of Cambodia Doc. Number L01291

[62] ‘Excerpted Report on the Leading Views of the Comrade Representing the Party Organization at a Zone Assembly, June 1976’, reprinted in David Chandler, Ben Kiernan, and Chanthou Boua, eds., Pol Pot Plans the Future: Confidential Leadership Documents from Democratic Kampuchea, 1976–1977 (New Haven: Yale University Southeast Asian Studies, 1988), 24.

[63] ‘The Party’s Four-Year Plan to Build Socialism in All Fields, 1977–1980’, reprinted in Chandler et al, Pol Pot Plans the Future, 47.

[64] Sokha Boun, Cambodge: La Massue de l’Angkar (Paris: Juillard, 1979), 198.

[65] Chanda, Brother Enemy, 79.

[66] Richardson, China, 86–89. Tham khảo thêm Andrew Mertha, Book Review, China, Cambodia, and the Five Principles of Peaceful Co-Existence, Journal of Asian Studies 70: 1(2011), 213.

[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]