Đánh giá Kế hoạch ‘Made in China 2025’

Biên dịch: Trần Quang

Khi các cuộc đàm phán thương mại tiếp tục mà chưa biết đến bao giờ mới kết thúc, “kỷ nguyên mới” của quan hệ Mỹ-Trung này có đặc trưng là những bất đồng về công nghệ và sản xuất nổi bật hơn bao giờ hết. Đặc biệt, kế hoạch “Made in China 2025” tiếp tục chi phối các tiêu đề báo chí. Kể từ khi ra mắt vào năm 2015, sáng kiến này đã trở thành chủ đề gây lo ngại căng thẳng và tranh cãi tái diễn, dẫn đến một mức độ nổi bật khá kỳ lạ đối với một vấn đề khá khó hiểu về chính sách công nghiệp. “Made in China 2025” là một phần then chốt trong cấu trúc phức tạp gồm các kế hoạch và chính sách nhằm mục đích tạo ra “sự phát triển theo định hướng đổi mới”, một chương trình nghị sự nổi lên như một ưu tiên rõ ràng dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình.

Trong nhiều khía cạnh, việc sáng kiến này ra mắt phản ánh một sự phản ứng lại năng lực sản xuất yếu kém của Trung Quốc so với các nước dẫn đầu toàn cầu, đồng thời tìm cách tận dụng cơ hội được công nhận để đạt được nguồn tăng trưởng mới. Càng ngày, “Made in China 2025” càng trở thành biểu tượng cho những tham vọng này, gây ra sự quan ngại sâu sắc của Mỹ về việc Trung Quốc nổi lên như một đầu tàu công nghệ kình địch với sự lãnh đạo của Mỹ. Mục tiêu cốt lõi của việc thúc đẩy “đổi mới bản địa” nhằm cho phép Trung Quốc “chấn hưng dân tộc” đã rất nhất quán trong các thế hệ lãnh đạo gần đây của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ). Về vấn đề này, khía cạnh công nghệ của sự trỗi dậy của Trung Quốc là không thể thiếu trong quỹ đạo tương lai của nước này như là một cường quốc đang trỗi dậy với những tham vọng toàn cầu.

Về cốt lõi, “Made in China 2025” nhằm mục đích biến Trung Quốc thành một “siêu cường sản xuất”. Cụ thể, kế hoạch này nhấn mạnh 10 lĩnh vực ưu tiên, bao gồm công nghệ thông tin thế hệ mới; các công cụ máy móc và rôbốt điều khiển số tiên tiến; công nghệ hàng không vũ trụ, bao gồm cả động cơ máy bay lẫn thiết bị hàng không; dược phẩm sinh học và thiết bị y tế hiệu suất cao. Tại thời điểm nền kinh tế Trung Quốc đang giảm tốc, việc nắm bắt những ngành công nghiệp và công nghệ mới nổi như vậy được coi là phương tiện then chốt để duy trì và cải thiện tăng trưởng. Chẳng hạn, việc theo đuổi những tiến bộ trong sản xuất thông minh được cho là mang tính sống còn để đảm bảo khả năng cạnh tranh trong tương lai trong bối cảnh diễn ra một cuộc cách mạng công nghiệp mới.

Những mục tiêu này không phải chỉ có ở Trung Quốc. “Made in China 2025” được lấy cảm hứng từ một nghiên cứu chặt chẽ về sáng kiến “Công nghiệp 4.0” của Đức. Về vấn đề này, không phải là trọng tâm của sáng kiến này, mà là những ý định được phản ánh trong các mục tiêu của nó và việc thực hiện là đáng quan ngại. Trong một thế giới trong đó công nghệ và đổi mới đã trở nên toàn cầu hóa cao, Trung Quốc đã tìm kiếm “sự tự cung tự cấp” trong các công nghệ cốt lõi khắp một loạt các ngành công nghiệp ưu tiên. Một cách ngấm ngầm và thường tương đối rõ ràng, mục tiêu trở thành một siêu cường sản xuất của Trung Quốc cho thấy tham vọng không chỉ đơn thuần là bắt kịp các nền kinh tế tiên tiến khác mà còn vượt qua và thay thế họ để đạt được vị trí thống trị trong các ngành này trên toàn thế giới.

Khi nền kinh tế Trung Quốc giảm tốc và Bắc Kinh tìm cách đảm bảo sự phát triển bền vững hơn trong dài hạn, việc nắm bắt các công nghệ và sự đổi mới mới nổi này được coi là một nhu cầu quốc gia ở cấp cao nhất. “Made in China 2025” phải được đặt trong bối cảnh truyền thống có một loạt rộng lớn các chính sách công nghiệp, mà phần lớn trong đó vẫn ít tai tiếng hơn nhưng tuy thế cũng đáng kể, bao gồm Chương trình phát triển khoa học và công nghệ quốc gia trong trung và dài hạn (2006-2020), trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện các năng lực đổi mới bản địa của Trung Quốc để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Sự nỗ lực cho đổi mới bản địa này bị ảnh hưởng bởi những quan ngại mạnh mẽ về những sự nguy hiểm của việc tụt lại phía sau hoặc vẫn phụ thuộc vào các công nghệ nước ngoài, được thấm nhuần bởi ký ức lịch sử về sự yếu kém và lạc hậu về công nghệ của Trung Quốc trong quá khứ.

Từ góc độ lịch sử, cách tiếp cận theo định hướng nhà nước với việc thúc đẩy sự đổi mới này hầu như không gây ngạc nhiên, tiếp tục di sản của chương trình “Hai quả bom, một vệ tinh” trong thời đại những năm 1960. Tuy nhiên, Tập Cận Bình rõ ràng đã nâng chương trình nghị sự này lên một tầm cao mới. Thời điểm hiện tại được coi là một cơ hội lịch sử duy nhất dành cho Trung Quốc, tại đó có sự hội tụ giữa một cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới và cuộc chuyển đổi công nghiệp với mô hình phát triển kinh tế đang tiến triển của chính Trung Quốc. Tất nhiên, điểm cuối dự định và đích đến cuối cùng cho các kế hoạch này là vào năm 2049, năm mà Trung Quốc dự định thực sự trở nên “có đẳng cấp thế giới” với tư cách là một siêu cường về khoa học và công nghệ. Đồng thời, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc cũng thường thẳng thắn thừa nhận một số thiếu sót tiếp tục, như trong các chu kỳ hội nhập, vẫn tồn tại đến hiện nay, dẫn đến sự phụ thuộc vào việc tiếp cận với “các nguồn lực đổi mới quốc tế” mà vẫn còn thiếu ở trong nước.

Chiến lược kết nối tất cả các sáng kiến này xuất phát từ một đường lối chỉ đạo cho sự phát triển “định hướng đổi mới”, liên kết một số sáng kiến có liên quan với nhau làm nổi bật một loạt các công nghệ đột phá. Chiến lược đáng chú ý này, do Ủy ban Trung ương ĐCSTQ và Quốc vụ viện cùng đưa ra, tuyên bố “sự đổi mới thúc đẩy và định hình số phận của quốc gia”. Chương trình nghị sự này đã định hình theo Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016-2020), một khung thời gian trong đó Trung Quốc rõ ràng đang ngày càng nhấn mạnh vào việc nắm bắt “các đỉnh cao vượt trội” của sự đổi mới, tìm cách đạt được lợi thế gia nhập đầu tiên trong một số công nghệ chiến lược nhất định. Thông qua Kế hoạch đổi mới khoa học và công nghệ quốc gia, Trung Quốc đã đưa ra 15 dự án lớn, ưu tiên một số công nghệ chiến lược nhất định để đạt được những tiến bộ lớn vào năm 2030, bao gồm từ rôbốt và khoa học về trí não đến một trạm không gian và điện toán lượng tử và truyền thông. Ưu tiên cao dành cho các công nghệ này đã dẫn đến việc đưa hàng tỷ đầu tư vào nghiên cứu và phát triển dài hạn, bao gồm thông qua việc thành lập các phòng thí nghiệm quốc gia mới, như cho khoa học thông tin lượng tử.

Đồng thời, có một sự nhấn mạnh tiếp tục lại vào một số “ngành công nghiệp chiến lược mới nổi”, bao gồm năng lượng mới, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin thế hệ kế tiếp. Ngoài các sáng kiến quốc gia, một số thành phố đã thực hiện các biện pháp của riêng họ ở cấp địa phương, cạnh tranh để thiết lập đặc trưng và lợi thế địa phương của riêng họ, trong đó có kế hoạch của Tế Nam tạo ra “Thung lũng Lượng tử”. Thông thường, sự tài trợ này kết hợp chuyên môn và các nguồn lực của các nhà đầu tư theo định hướng của chính phủ, trong đó có một quỹ hướng dẫn đầu tư mạo hiểm mới được thành lập vào năm 2016 đang nhắm mục tiêu vào các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi, đã huy động tiền lên đến mức 17,85 tỷ nhân dân tệ (hơn 2,6 tỷ USD).

Báo cáo công tác của Tập Cận Bình tại Đại hội Đảng 19 vào tháng 10/2017 có lẽ đã đưa ra đánh giá có thẩm quyền nhất về tính định hướng của các kế hoạch và ý định của Trung Quốc. Trong bài phát biểu của mình, Tập Cận Bình nhấn mạnh:

Chúng ta sẽ làm việc nhanh hơn để xây dựng Trung Quốc trở thành nhà sản xuất chất lượng và phát triển sản xuất tiên tiến, thúc đẩy hội nhập Internet, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo (AI) vào nền kinh tế thực hơn nữa, và thúc đẩy các lĩnh vực tăng trưởng mới và thúc đẩy tăng trưởng tiêu dùng trung bình-cao cấp, phát triển theo định hướng đổi mới, nền kinh tế xanh và khí thải thấp, nền kinh tế chia sẻ, các chuỗi cung ứng hiện đại và dịch vụ vốn nhân lực. Chúng ta sẽ hỗ trợ các ngành công nghiệp truyền thống tự nâng cấp bản thân và đẩy nhanh sự phát triển của các ngành dịch vụ hiện đại để nâng chúng lên các tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta sẽ đưa các ngành công nghiệp Trung Quốc lên đến tầm trung-cao cấp của chuỗi giá trị toàn cầu và thúc đẩy một số nhóm sản xuất tiên tiến đẳng cấp thế giới.

Tất nhiên, những ý tưởng và chủ đề này không phải là duy nhất đối với cá nhân Tập Cận Bình; thay vào đó đã có một sự nhất quán hợp lý trong cách các nhà lãnh đạo Trung Quốc giải quyết và theo đuổi các mục tiêu này. Chẳng hạn, Hồ Cẩm Đào trong báo cáo công tác của ông tại Đại hội Đảng lần thứ 18 vào tháng 11/2012 đã nhấn mạnh các mục tiêu tương tự, kêu gọi Trung Quốc “thúc đẩy sự tăng trưởng mạnh mẽ của các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi và các ngành sản xuất tiên tiến, [và] tăng tốc quá trình chuyển đổi và nâng cấp các ngành công nghiệp truyền thống”. Tuy nhiên, Tập Cận Bình phê chuẩn sự đổi mới theo một cách và ở một mức độ cho thấy rằng khái niệm này không chỉ đơn thuần là một từ thông dụng mà cần được coi là một yếu tố cốt lõi trong hệ tư tưởng của ông.

Những kế hoạch và mục tiêu này cần được coi trọng như một dấu hiệu có căn cứ cho thấy những khát vọng và mong muốn của Trung Quốc. Tuy nhiên, tầm quan trọng của chúng có thể bị nói quá, so với vai trò then chốt của lĩnh vực công nghệ của Trung Quốc trong việc hiện thực hóa chương trình nghị sự này. Sự thành công của Trung Quốc về các công nghệ đột phá ngày nay có thể góp phần vào động lực của các công ty công nghệ của Trung Quốc, những công ty tự mình nổi lên như những công ty hàng đầu toàn cầu thực sự. Những nhà quán quân mới này bao gồm các công ty hàng đầu như Baidu, Alibaba, Tencent và iFlytek, là các công ty lớn tham gia trong lĩnh vực AI và là những công ty có những đóng góp quan trọng cho những cơ sở và phòng thí nghiệm quốc gia để phát triển AI. Không như các doanh nghiệp nhà nước đã và vẫn là các yếu tố chính trong sự phát triển của Trung Quốc, lĩnh vực công nghệ mới này khởi đầu chủ yếu là tư nhân và tương đối độc lập với định hướng của nhà nước, trong khi thường được hưởng lợi từ sự hỗ trợ và đầu tư mạnh mẽ của nhà nước.

Tuy nhiên, sự cân bằng đó đang bắt đầu thay đổi theo những cách có thể làm suy yếu sự thành công trong tương lai của các công ty công nghệ này. Hiện tại, ĐCSTQ dường như đang trong quá trình khẳng định sự kiểm soát chặt chẽ hơn bao giờ hết đối với các công ty công nghệ Trung Quốc. Những mâu thuẫn quan trọng này mở rộng đến khoảng cách giữa những lời hoa mỹ cao cả về sự đổi mới và các công nghệ mà thông qua đó Chính phủ Trung Quốc tìm cách đạt được điều đó, cụ thể là gián điệp công nghiệp quy mô rộng lớn và đang diễn ra. Trong lịch sử gần đây, các phương tiện mà nhờ đó Trung Quốc theo đuổi sự tiến bộ công nghệ đã gây ra sự quan ngại mạnh mẽ trong các nhà lãnh đạo Mỹ và ngày càng trên toàn thế giới về các thực tiễn “trục lợi”. Những chiến thuật này đã bao gồm trộm cắp tài sản trí tuệ (IP), chuyển giao công nghệ ép buộc và các khoản trợ cấp có mục tiêu có thể bị bóp méo và đã được chứng minh là gây hại nghiêm trọng, như được ghi lại trong báo cáo Mục 301 do Văn phòng Đại diện thương mại Mỹ công bố dựa trên một cuộc điều tra về những thực tiễn của Trung Quốc liên quan đến IP và chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, như các vụ việc gần đây đã chứng minh, các hoạt động này vẫn tiếp tục, và các kỹ thuật được sử dụng đã phát triển, trong đó có cả việc dường như sử dụng sự hợp tác khoa học và những cộng tác học thuật để tiếp cận kiến thức tiềm ẩn và những tiến bộ mới nhất. Vào mùa Thu năm 2018, Bộ Tư pháp Mỹ đã công bố một loạt các bản cáo trạng chống lại các sĩ quan và đặc vụ của Bộ An ninh Nhà nước (MSS), những người thường nhắm đến nhiều trong cùng các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi mà các kế hoạch khoa học và công nghệ của Trung Quốc ưu tiên. Trong khi đó, một số luật pháp và chính sách của Trung Quốc đã che đậy một cách mỏng manh xu hướng hướng tới chủ nghĩa bảo hộ trong việc biện minh cho việc loại trừ các công ty công nghệ nước ngoài với một ưu tiên dành cho các công nghệ “bảo mật và có thể kiểm soát được”. Bất chấp các cam kết, bao gồm cả “Made in China 2025”, nhằm cải thiện khả năng bảo vệ IP, thành công rõ ràng của Trung Quốc trong việc biến thành một nước dẫn đầu toàn cầu trong các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi nào đó sẽ luôn đi kèm với dấu hiệu cho thấy di sản của những thông lệ này.

Tuy nhiên, mối đe dọa ngắn hạn do các công nghệ gian lận và gây thiệt hại này thể hiện đang bắt đầu bị lu mờ bởi một nhận thức về thách thức trong dài hạn của việc Trung Quốc trỗi dậy như một đầu tàu về các công nghệ mới nổi. Mô hình đổi mới này của Trung Quốc đang mở rộng sang tập trung vào chuỗi công nghệ mới mà vượt ra ngoài lĩnh vực sản xuất để nhận ra tiềm năng của nền kinh tế số là một động lực phát triển mới. Chẳng hạn, vào năm 2018, các ngành công nghiệp chiến lược mới nổi được ước tính đã đóng góp khoảng 20% tăng trưởng GDP hàng năm của Trung Quốc trong thập kỷ qua. Đặc biệt, AI, ban đầu không được đưa vào kế hoạch “Made in China 2025”, chỉ mới nổi lên gần đây như là một ưu tiên rõ ràng đối với Chính phủ Trung Quốc. Ở đây, Trung Quốc cũng học hỏi được từ các nước khác trong việc tạo ra những chính sách công nghiệp của riêng mình. Đặc biệt, Văn phòng chính sách khoa học và công nghệ của Mỹ (OSTP) đã công bố một số kế hoạch và lộ trình vào giữa và cuối năm 2016 mà dường như làm nguồn cảm hứng cho các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc vài một thời điểm khi Bắc Kinh ngày càng quan ngại về AI, một phần để đối phó với “thời khắc Sputnik” trí tuệ nhân tạo AlphaGo đã đánh bại Lee Sedol trong trò chơi cờ vây vào mùa Xuân năm 2016.

Nhìn lại, mỉa mai là Trung Quốc có thể được hưởng lợi từ những nỗ lực ban đầu này nhiều hơn so với Mỹ cho đến nay trong việc xây dựng được dựa trên nền tảng chính sách đó để thúc đẩy sự đổi mới, với một tốc độ và quy mô thực hiện có xu hướng làm cho Mỹ ghen tị. Trung Quốc đang nhiệt tình theo đuổi AI. Đặc biệt, Kế hoạch phát triển AI thế hệ mới, được công bố tháng 7/2017, phù hợp với một sự huy động lớn các nguồn tài chính và tài nguyên quốc gia để hỗ trợ siêu dự án AI này theo các cách có thể rất không hiệu quả, nhưng có lẽ hiệu quả cao trong dài hạn.

Trong những phát biểu của ông tại một phiên họp nghiên cứu của Bộ Chính trị về việc thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của AI, ông Tập nhấn mạnh: “thúc đẩy sự phát triển của một thế hệ AI mới là một tay nắm chiến lược quan trọng để Trung Quốc đạt được thế chủ động trong cuộc cạnh tranh về khoa học và công nghệ toàn cầu”. Ông thúc giục rằng Trung Quốc “phải chiếm lĩnh các đỉnh cao” của “công nghệ then chốt và cốt lõi”. Trong khi những tham vọng này chỉ mới bắt đầu chi phối các tiêu đề báo chí trên khắp thế giới, thì việc Tập Cận Bình nhấn mạnh vào “các công nghệ cốt lõi” là một chủ đề nhất quán xuyên suốt nhiệm kỳ của ông, bao gồm trong một bài phát biểu quan trọng tại một hội nghị về an ninh mạng và thông tin hóa vào tháng 4/2016, tại đó ông đăm chiêu suy ngẫm:

Các công nghệ cốt lõi là gì? Như tôi thấy, có 3 lĩnh vực mà chúng ta có thể nắm bắt. Đầu tiên là công nghệ cơ bản, công nghệ thường được sử dụng. Thứ hai là công nghệ bất đối xứng, hay công nghệ ‘con át chủ bài’. Thứ ba là công nghệ tiên tiến, hay công nghệ đột phá. Ở những lĩnh vực này, chúng ta đang ở cùng một vạch xuất phát với thế giới bên ngoài, nếu chúng ta có thể đi đầu trong việc triển khai và tập trung vào cuộc tấn công của mình, chúng ta rất có thể thực hiện một sự chuyển biến từ chạy theo họ sang sánh ngang hoặc thậm chí đi trước họ.

Theo truyền thống, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có xu hướng sử dụng ngôn ngữ quân sự rõ rệt trong các cuộc thảo luận về cạnh tranh công nghệ. Chẳng hạn, Tập Cận Bình đã tuyên bố trong cùng một bài phát biểu, “Chúng ta phải tấn công các con đường độc đạo chiến lược theo một cách phối hợp. Chúng ta phải tấn công mạnh các pháo đài nghiên cứu và phát triển công nghệ cốt lõi… Chúng ta phải tập trung các lực lượng mạnh mẽ nhất để cùng hành động, tạo ra các đội quân thần tốc và các lực lượng đặc biệt nhằm đột chi những con đường độc đạo đó”.

Nếu Trung Quốc tự nhận thấy “đang trong cuộc chiến” nắm bắt “trình độ đổi mới cao”, thì các chính sách của Mỹ có thể chỉ làm tăng thêm ý chí và quyết tâm chiến đấu của họ. Đặc biệt, những quan ngại về các công nghệ “then chốt và cốt lõi” thậm chí còn sâu sắc hơn sau lệnh cấm xuất khẩu chất bán dẫn của Mỹ cho ZTE, khiến công ty này phải khuất phục trước khi bị thay đổi hoàn toàn. Ngay cả khi tác động của cuộc chiến thương mại đối với nền kinh tế Trung Quốc, trong đó có một số ngành công nghiệp được ưu tiên trong chính kế hoạch “Made in China 2025”, đã trở nên sâu sắc hơn, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho đến nay chỉ có những động thái mang tính tượng trưng để phản ứng lại sự chống trả của Mỹ trước các yếu tố trục lợi và có vấn đề của các chính sách và hành vi của Trung Quốc. Sự phản ứng mạnh mẽ đối với “Made in China 2025” đã dẫn đến ít nhất là những thay đổi ở bề ngoài đối với các cách tiếp cận của Trung Quốc với các chính sách công nghiệp, chẳng hạn như bỏ nhấn mạnh vào cụm từ và cái mác “Made in China 2025” trong một số tài liệu mới nhất. Tuy nhiên, vẫn có những dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy các sáng kiến cơ bản đang tiếp tục mà không có sự thay đổi đáng kể nào. Ngay cả khi cụm từ “Made in China 2025” trở nên ít nổi bật hơn, thì việc nó biến mất giỏi lắm cũng chỉ là một dấu hiệu bề ngoài, vì mô hình phát triển này vẫn ăn sâu.

Những phản ứng chính sách của Mỹ đối với thách thức này của Trung Quốc phải được thấm nhuần bởi nhận thức có sắc thái về những lợi ích và thiếu sót của mô hình đổi mới này. Quả thực, suy nghĩ nghiêm túc về giai đoạn cạnh tranh công nghệ mới này phải tính đến một đánh giá thực tế về các điểm mạnh và điểm yếu của Trung Quốc và Mỹ.

Chẳng hạn, khái niệm được nhiều người ca tụng rằng Trung Quốc có lợi thế quan trọng về AI nhờ vào dữ liệu. Nhà đầu tư mạo hiểm Trung Quốc và là chuyên gia AI Kai-Fu Lee thường tuyên bố “Dữ liệu là dầu lửa mới còn Trung Quốc là Saudi Arabia mới”. Các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc đã nhấn mạnh tương tự rằng Trung Quốc ở vào vị trí thuận lợi để dẫn đầu về AI vì nước này đang đi đúng hướng để sở hữu khoảng 30% dữ liệu của thế giới vào năm 2030. Tuy nhiên, khả quan nhất cũng không có khả năng là Trung Quốc có thể có một lợi thế lâu dài chỉ nhờ vào dữ liệu. Có một số lợi ích duy nhất đối với chiều sâu và số lượng dữ liệu có sẵn, bao gồm cả những lợi ích được tạo ra nhờ hệ sinh thái công nghệ nhảy vọt của Trung Quốc, trong đó dịch vụ và thanh toán di động đã nhanh chóng trở thành trào lưu chính. Tuy nhiên, phần lớn dữ liệu này chỉ liên quan trực tiếp đến các kỹ thuật và ứng dụng học máy cụ thể. Chẳng hạn, Trung Quốc đã đạt được những thế mạnh cụ thể trong nhận diện khuôn mặt, trong số các loại thị giác máy tính khác, và xử lý ngôn ngữ tự nhiên, mà khối lượng dữ liệu khổng lồ có sẵn đã đóng góp vào đó. Việc công nhận dữ liệu là một nguồn tài nguyên chiến lược quan trọng, bao gồm thông qua việc tạo ra các nền tảng mở và thúc đẩy chia sẻ dữ liệu, có lợi cho Trung Quốc để đạt được sự phối hợp độc nhất giữa khu vực tư nhân và những phát triển AI của quốc gia. Tuy nhiên, lợi thế này có thể tỏ ra chỉ là một hiện tượng, vì những tiến bộ ngày nay trong học máy liên quan đến sự tiến bộ nhanh chóng về các kỹ thuật mà không đòi hỏi lượng dữ liệu khổng lồ như vậy. Về khía cạnh này, Mỹ, nơi vẫn là ngôi nhà của một số công ty và nhà nghiên cứu AI hàng đầu thế giới, vẫn giữ được lợi thế lớn, ít nhất là trong thời điểm hiện tại.

Thông thường, các đánh giá của Mỹ về năng lực công nghệ của Trung Quốc dao động giữa việc gạt bỏ và đánh giá quá cao. Thậm chí gần đây, có một nhận thức sai lầm nhưng thường xuyên ở Mỹ rằng Trung Quốc thực tế không có khả năng đổi mới và chỉ đạt được tiến bộ trên cơ sở gián điệp mạng thương mại và đánh cắp tài sản trí tuệ. Mức độ quan tâm và quan ngại về kế hoạch “Made in China 2025” được chứng thực trong chừng mức sáng kiến này và tinh thần thời đại mà nó thể hiện phải được xem xét hoàn toàn nghiêm túc như là một chỉ số về phạm vi và quy mô của những khát vọng công nghệ-chiến lược của Trung Quốc. Gạt bỏ những biện pháp này như là các chính sách công nghiệp sẽ thất bại trong dài hạn phản ánh mức độ tự tin thái quá và một quan điểm phi lịch sử. Tồi tệ nhất, một cách tiếp cận định hướng nhà nước có thể tỏ ra là phản tác dụng, thậm chí gây tổn hại sâu sắc đến tiềm năng kinh tế của một nước. Khả quan nhất, sự can thiệp thận trọng của chính phủ có thể là một yếu tố hỗ trợ quan trọng cho sự đổi mới.

Hiện tại, có những quan ngại sâu sắc rằng Trung Quốc đang “chiến thắng” trong “cuộc chạy đua”, dù là về AI, điện toán lượng tử hay viễn thông thế hệ thứ năm (5G). Vấn đề đánh giá sự cân bằng thực tế trong các công nghệ này luôn luôn phức tạp, vì các đánh giá có thể khác nhau tùy thuộc vào các thước đo được sử dụng và sự phân tích chi tiết hơn về các công nghệ bị nghi ngờ. Chẳng hạn, Trung Quốc là nước đi đầu trong việc phát triển cơ sở hạ tầng truyền thông lượng tử, như thể hiện qua việc phóng vệ tinh lượng tử đầu tiên của thế giới, nhưng không có lợi thế không thể tranh cãi trong lĩnh vực này. Hơn nữa, việc là nước khởi xướng không nhất thiết là yếu tố quyết định quan trọng nhất của khả năng cạnh tranh lâu dài, đặc biệt khi tính đến sự an toàn và an ninh đang bị đe dọa, như trong 5G.

Là một đối thủ cạnh tranh, Trung Quốc có lẽ là thách thức duy nhất, nhưng không phải là không thể bác bỏ. Mô hình đổi mới nằm ở trung tâm của cách tiếp cận của Trung Quốc với cuộc cạnh tranh chiến lược có những điểm mạnh nhất định nhưng cũng có thể chứng minh tự giới hạn hoặc tự chuốc lấy thất bại do những mâu thuẫn cơ bản. Mặc dù chính sách công nghiệp có thể bị chê bai là một cách tiếp cận không hiệu quả với việc phân bổ nguồn lực, nhưng có một số yếu tố nhất định trong chính sách của Trung Quốc là thông minh và trên thực tế, dường như được truyền cảm hứng từ những gì Mỹ đã thực hiện thành công trong quá khứ. Về vấn đề này, Trung Quốc có thể đã học được những bài học đúng đắn từ các chính sách của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh, bao gồm cả việc công nhận giáo dục là một đòi hỏi quốc gia để cạnh tranh, và các nhà hoạch định chính sách Mỹ ngày nay cũng phải xem lại di sản đó.

Mức độ quan ngại và chú ý đối với kế hoạch “Made in China 2025” cũng nên được hướng vào các sáng kiến mới của Trung Quốc trong giáo dục STEM (một chương trình giảng dạy dựa trên ý tưởng trang bị cho người học những kiến thức, kỹ năng liên quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học) bao gồm cả phát triển tài năng AI. Trong nhiều khía cạnh, Mỹ và Trung Quốc ngày nay đang ở trong một “cuộc chạy đua tài năng” hơn là một cuộc chạy đua vũ trang. Chẳng hạn, cá nhân Tập Cận Bình đã tuyên bố rằng “cạnh tranh về sức mạnh quốc gia toàn diện là cạnh tranh tài năng. Bất cứ quốc gia nào có lợi thế về tài năng cuối cùng cũng sẽ sở hữu lợi thế về sức mạnh”. Thái độ này thể hiện khá rõ trong việc tuyển dụng nhân tài hàng đầu được đặt mục tiêu cao trong các lĩnh vực then chốt thông qua một loạt các kế hoạch tài năng, điều trái ngược hoàn toàn với việc Mỹ hạn chế nhập cư mà đang bắt đầu ngăn cản các sinh viên và nhà khoa học hàng đầu đến và ở lại. Mỹ cũng phải coi trọng cuộc cạnh tranh này, thừa nhận rằng việc khôi phục nền giáo dục Mỹ và đánh giá lại các chính sách của chúng ta về nhập cư là một trong những phản ứng chính sách quan trọng – và rõ ràng – nhất mà tác động đối với chúng có thể kéo dài.

Cuối cùng, Mỹ không thể kiểm soát các chính sách của Trung Quốc hoặc kiềm chế những tham vọng của nước này. Hơn nữa, mình Mỹ chỉ có các lựa chọn đòn bẩy có giới hạn, điều sẽ làm cho sự phối hợp với các đồng minh và đối tác để gây áp lực lớn hơn là một tiến trình hành động quan trọng trong tương lai. Mặc dù các nhà hoạch định chính sách của Mỹ phải nhận ra sự nguy hiểm của sự tự mãn khi đối mặt với những tiến bộ và khát vọng của Trung Quốc, nhưng cũng có những lý do để nhận ra khả năng là những căng thẳng và mâu thuẫn tiềm ẩn phía dưới những thành công của nước này có thể làm xói mòn mô hình đổi mới của nó trong thời gian dài. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo Mỹ có thể chọn phản ứng lại theo những cách tập trung trước hết và quan trọng nhất vào việc thúc đẩy sự đổi mới và khả năng cạnh tranh của Mỹ.

Elsa B. Kania là nghiên cứu viên thực tập của Chương trình Công nghệ và An ninh Quốc gia, Trung tâm An ninh Mỹ Mới (CNAS). Bài viết được đăng trên The Diplomat.

Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông