Nguồn: Kai He (2008). “Institutional Balancing and International Relations Theory: Economic Interdependence and Balance of Power Strategies in Southeast Asia”, European Journal of International Relations, Vol. 14, No. 3 pp. 489–518.
Biên dịch & Hiệu đính: Nguyễn Thế Phương
Bài nghiên cứu kết hợp một số yếu tố của chủ nghĩa hiện thực mới và chủ nghĩa tự do mới trong một mô hình cân bằng quyền lực thông qua thể chế (cân bằng thể chế) nhằm xác định những điều kiện mà thông qua đó, hình thức cân bằng quyền lực mềm này xảy ra. Cân bằng thể chế là quá trình chống lại áp lực hay các mối đe dọa từ bên ngoài thông qua việc đề xuất, tận dụng và thậm chí là chi phối các thể chế mang tính chất đa phương, một chiến lược mới của những nhà hiện thực chủ nghĩa nhằm giúp các quốc gia bảo đảm an ninh của mình trong môi trường vô chính phủ. Sự tác động lẫn nhau giữa một bên là việc phân bổ các năng lực của quốc gia và một bên là sự phụ thuộc mạnh mẽ về kinh tế ảnh hưởng đến các quốc gia trong việc quyết định khi nào và làm thế nào sử dụng chiến lược đó. Những ví dụ rút ra từ lịch sử bao gồm: nỗ lực tập thể và đơn lẻ của những nước Thế giới thứ ba và các siêu cường nhằm thiết lập các nhóm bỏ phiếu tại Liên Hiệp Quốc trong Chiến tranh Lạnh; cân bằng nội tiếp (inclusive balancing) của các nước ASEAN nhằm kiềm chế Trung Quốc và đảm bảo sự ủng hộ của Mỹ trong Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) sau Chiến tranh Lạnh; cân bằng thể chế ngoại tiếp (exclusive balancing) của ASEAN chống lại Mỹ tại Hội nghị ASEAN+3 sau Khủng hoảng tài chính Đông Nam Á. Những ví dụ trên làm sáng tỏ tính lô-gic trong lập luận của quá trình cân bằng thể chế dưới tác động của những trật tự quan hệ quốc tế cụ thể: trật tự hai cực trong Chiến tranh Lạnh, trật tự đơn cực và trật tự đa cực mới xuất hiện sau Chiến tranh Lạnh.
Giới thiệu
Ngay sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, rất nhiều học giả theo chủ nghĩa hiện thực dự đoán rằng Châu Á sẽ trở thành một khu vực “chín muồi cho quá trình cạnh tranh quyền lực” hay sẽ “quay trở lại tương lai” như là kết quả của sự kết thúc trật tự hai cực giữa Mỹ và Liên Xô (Friedberg, 1993/94; Buzan and Segal, 1994). Tuy nhiên, các nhà hiện thực cổ điển có vẻ như đã “nhận thức sai về châu Á”, bằng chứng là khoảng thời gian hơn một thập kỷ tương đối yên bình ở khu vực sau Chiến tranh Lạnh (Kang, 2003). Với một Đông Á bị chia đôi thành Đông Bắc Á và Đông Nam Á, thì khu vực thứ hai lại trở nên yên bình “một cách khác thường” so với khu vực đầu tiên. Trong khi khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên và căng thẳng giữa hai bờ eo biển Đài Loan trở thanh hai điểm nóng lớn đe dọa tới sự ổn định của Đông Bắc Á, thì tại Đông Nam Á lại không xuất hiện bất cứ mối đe dọa an ninh nào mang tính chất nghiêm trọng và cấp bách ở mức độ quốc gia.[1] Thậm chí các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông khó có thể khiến các nước Đông Nam Á có liên quan rơi vào xung đột quân sự toàn diện với Trung Quốc.
Thú vị hơn, “sự ngoại lệ Đông Nam Á” sau Chiến tranh Lạnh như đã đề cập ở trên được đặc trưng bởi quá trình phát triển mạnh mẽ của các thể thế đa phương ở khu vực mà Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là nhân tố thúc đẩy chính, đặc biệt với sự ra đời của Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), quá trình thể chế hóa cơ chế ASEAN+3 với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, và Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) – một thiết chế mới nổi lên trong những năm gần đây. Thay vì tìm kiếm mối quan hệ đồng minh với những nước lớn, các quốc gia ở Đông Nam Á đã rất tự tin khi dựa vào các thể chế đa phương như là một công cụ hữu hiệu nhằm duy trì an ninh của họ sau Chiến tranh Lạnh.[2]
Vậy tại sao các quốc gia ASEAN lại đưa ra nhiều sáng kiến và đẩy mạnh xây dựng các thể chế đa phương? Những người theo Chủ nghĩa Hiện thực, đặc biệt là Chủ nghĩa Hiện thực mới, cho rằng các thể thế đa phương chỉ là một “hiện tượng phụ” trong chính trị quốc tế và do đó vai trò thực sự của ASEAN trong an ninh khu vực không đáng kể (Mearsheimer, 1995; Leifer, 1999). Tuy nhiên, Chủ nghĩa Tự do mới lại cho rằng ASEAN là một công cụ thiết thực của các quốc gia Đông Nam Á nhằm tăng cường hợp tác khu vực thông qua việc giảm chi phí thực thi, gia tăng tính minh bạch và giúp đưa ra những vấn đề an ninh cấp bách nhằm cùng nhau thảo luận và tìm ra phương hướng giải quyết phù hợp (Keohane and Martin, 1995; Simon, 1995). Những người theo Chủ nghĩa Kiến tạo thì xem bản sắc độc đáo và các quy chuẩn của ASEAN – thông qua các thể chế đa phương – đã giúp hình thành một cộng đồng an ninh non trẻ mà ở đó các quốc gia về cơ bản loại trừ các hành vi sử dụng vũ lực trong việc giải quyết các xung đột khu vực (Adler and Barnett, 1998; Acharya, 2000).
Trong bài viết này, tôi cho rằng ba luận điểm ở trên đã phần nào mô tả được xung lực của các thể thế đa phương tại Đông Nam Á. Đầu tiên, các nhà Hiện thực chủ nghĩa đã chính xác trong việc nhấn mạnh vai trò to lớn của các cường quốc ngoài khu vực như Mỹ, Trung Quốc, và Nhật Bản, đối với an ninh Đông Nam Á, nhưng họ đã không tính tới quá trình thể chế hóa an ninh khu vực sau Chiến tranh Lạnh. Nếu như các thể chế thực sự không mang lại lợi ích nào đáng kể, thì tại sao các nước lại cố gắng đóng góp nguồn lực và công sức để xây dựng nên các thể chế như vậy? Bên cạnh đó, nếu các thể chế chỉ là công cụ cho các quốc gia lớn hơn nhằm mục tiêu mở rộng lợi ích và ảnh hưởng của mình giống như các nhà hiện thực cổ điển đã nhận xét, thì tại sao ASEAN – một nhóm các nước nhỏ và trung bình – lại có thể đứng đầu trong việc xây dựng nên các thể chế đa phương sau Chiến tranh Lạnh? Như Joseph Grieco (2002) đã thừa nhận, quá trình thể chế hóa trong nền chính trị thế giới chính là mắt xích yếu nhất trong luận điểm của các nhà Hiện thực cấu trúc.
Chủ nghĩa Tự do mới nhấn mạnh tính chất hợp tác của ASEAN trong việc thúc đẩy các liên kết kinh tế và ngoại giao trong khu vực, ví dụ như sự thành lập Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) và sự điều phối chính trị của các nước ASEAN trong cuộc khủng hoảng tại Campuchia. Tuy nhiên, Chủ nghĩa Tự do mới lại không thể lý giải được khung thời gian cũng như quá trình biến đối của các thể chế quốc tế ở Đông Nam Á, ví dụ như tại sao các thể chế đa phương lại phát triển mạnh mẽ ở Đông Nam Á chỉ sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc? Tại sao các thể chế này lại gặp trục trặc trong suốt cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997? Dưới điều kiện nào các thể chế này lại có thể giúp các quốc gia vượt qua được mối lo ngại về lợi ích tương đối trong một hệ thống quốc tế vô chính phủ vẫn còn là những câu hỏi chưa có lời giải đối với những người theo Chủ nghĩa Tự do mới.
Chủ nghĩa Kiến tạo xã hội lại đưa những biến số thuộc về tư tưởng, như các quy chuẩn, bản sắc, và văn hóa vào việc nghiên cứu vấn đề an ninh tại Đông Nam Á và đã phần nào thành công trong quá trình tìm hiểu sự tiến hóa về tổ chức cũng như các thông lệ ngoại giao của ASEAN, đặc biệt là nguồn gốc và sự phát triển của “phương thức ASEAN” (Acharya, 2000; Haacke, 2003). Tuy nhiên, chủ nghĩa này lại không phù hợp khi cần phải giải thích các hình mẫu hành vi trong một bổi cảnh rộng lớn hơn, ví dụ như ARF hay ASEAN+3, trong đó sự tương tác giữa các nước ASEAN với các cường quốc ngoài khu vực mang tính chất đa dạng và rộng lớn hơn nhiều khi so sánh với quá trình chia sẻ bản sắc hay quy chuẩn giữa các nước thành viên trong khối ASEAN. Thêm vào đó, việc đo lường và áp dụng các biến số thuộc về tư tưởng nói trên vẫn đang gặp phải những tranh cãi và phản biện rất lớn từ các nhà khoa học xã hội theo quan điểm duy lý (Desch, 1998).[3]
Trường phái Anh Quốc trong nghiên cứu Quan hệ Quốc tế cũng đưa ra một quan điểm đặc biệt về các thể chế quốc tế. Trường phái Anh Quốc định nghĩa các thể chế quốc tế như là “một tập hợp các thói quen và hành vi được định hình hướng tới việc đạt được những mục tiêu chung….bao gồm…quá trình cân bằng quyền lực, luật pháp quốc tế, các cơ chế ngoại giao, hệ thống quản lý các cường quốc, và chiến tranh” (Bull, 1977:71). Một mặt, trường phải này chia sẻ nhận thức chung về thể chế với Chủ nghĩa Kiến tạo xã hội, khi xem các thể chế như là một dạng hành vi xã hội được sử dụng nhằm “gắn kết thế giới” (Ruggie, 1998), hay nói cách khác là duy trì xã hội quốc tế theo ngôn ngữ của Bull. Mặt khác, sự nhấn mạnh vào chủ quyền, vị trí lãnh thổ, và các thành tố cấu tạo nên các thể chế đã giúp tạo nên một nhận thức chung giữa Trường phái Anh Quốc và Chủ nghĩa Hiện thực (Buzan and Waever, 2003).
Trong khi vẫn thừa nhận những đóng góp to lớn của Trường phái Anh Quốc trong quá trình nghiên cứu các thể chế quốc tế, nội dung nghiên cứu của bài viết này chủ yếu nhắm tới mô tả chức năng của thế chế quốc tế thông qua quan điểm của các trường phái Hiện thực mới, Tự do mới và trường phái Kiến tạo trong lý thuyết Quan hệ Quốc tế. Để bù đắp những khiếm khuyết của các trường phái nghiên cứu lý thuyết Quan hệ quốc tế khác nhau, tôi đã đưa ra một mô hình mang tính tổng hợp về cân bằng thể chế dựa trên những điểm chung giữa chủ nghĩa Hiện thực mới và Tự do mới nhằm giải thích hành vi của các quốc gia bên trong các thể chế được đề cập. Sau đó, tôi sẽ chứng minh tính hợp lý của các hành vi ấy thông qua hai trường hợp nghiên cứu liên quan tới hành vi của các quốc gia ASEAN trong các thể chế đa phương tại Đông Nam Á sau Chiến tranh Lạnh.
Cân bằng thể chế vì mục tiêu an ninh: Cạnh tranh thông qua phương tiện khác
Nhận thấy những yếu điểm của từng lý thuyết cụ thể, nhiều học giả đã đề xướng cách tiếp cận “tool box” (hộp công cụ) – mang tính tổng thể nhằm kết hợp những lý thuyết cụ thể với mục tiêu xây dựng các khuôn khổ nghiên cứu mới về Đông Nam Á. Sheldon Simon (1995) đã đưa ra ý tưởng về một chiến lược “hai con đường” nhằm giải thích hệ thống an ninh Đông Nam Á thông qua việc kết hợp giữa Chủ nghĩa Hiện thực mới và Chủ nghĩa Tự do mới. Với cùng ý tưởng tương tự, William Tow (2001) đã ủng hộ cách tiếp cận “an ninh hội tụ” với mục đích kết hợp cách nhìn, thái độ của các nhà Hiện thực chủ nghĩa/những người ủng hộ Chủ nghĩa song phương với cách nhìn của những người ủng hộ thể chế và Chủ nghĩa đa phương để cố gắng xây dựng một trật tự Châu Á – Thái Bình Dương hợp lý và bền vững.
Mô hình cân bằng thể chế đi theo các cách tiếp cận “hai con đường” của Simon và “an ninh hội tụ” của Tow tiến tới xây dựng một hình mẫu với các khuôn khổ lý thuyết được kết hợp với nhau nhằm mô tả môi trường an ninh ở Đông Nam Á sau chiến tranh Lạnh.[4] Được xây dựng dựa trên nền tảng lý thuyết về cân bằng quyền lực của Chủ nghĩa Hiện thực mới, kết hợp với giả thuyết “cơ hội lên tiếng” của Joseph Grieco (Grieco, 1995), mô hình cân bằng thể chế định hình nên cơ chế của quá trình được gọi là “cân bằng thể chế”, tức quá trình chống lại các áp lực hay mối đe dọa thông qua việc đề xướng, tận dụng và kiểm soát các thể chế đa phương. Đây được xem như một chiến lược mang tính hiện thực có tầm nhìn dài hạn nhằm đảm bảo an ninh trong một môi trường vô chính phủ.[5] Chiến lược này cho rằng (1) sự tự chủ về kinh tế ở mức độ cao sẽ giúp cho các quốc gia có thể lựa chọn cho mình một chiến lược cân bằng mới mang màu sắc hiện thực – cân bằng thể chế – thay vì phải lựa chọn xây dựng các liên minh quân sự mang tính truyền thống để đối phó với các mối đe dọa hay áp lực từ hệ thống; (2) quá trình phân bổ năng lực trong hệ thống khu vực sẽ quyết định cách thức làm thế nào để các quốc gia có thể tiến hành cân bằng thể chế, ở đây bao gồm cân bằng nội tiếp và cân bằng ngoại tiếp.
Biến phụ thuộc trong mô hình cân bằng thể chế chính là hành vi của quốc gia trong hệ thống quốc tế. Theo nhận thức của Chủ nghĩa Hiện thực mới, hành vi quốc gia điển hình trong một môi trường vô chính phủ là tạo sự cân bằng, mặc dù một số hành vi như phù thịnh (bandwagoning) hay chuyền trách nhiệm (buck-passing) cho nhau vẫn đôi khi xảy ra (Waltz, 1979:126). Định nghĩa truyền thống của quá trình cân bằng chủ yếu nhắc đến cân bằng quyền lực hay “cân bằng cứng” trong lĩnh vực quân sự. Cân bằng thể chế, tuy vậy, là một dạng thức cân bằng mới – hành vi “cân bằng mềm”. Nhiều học giả theo Chủ nghĩa Hiện thực sử dụng cân bằng mềm để mô tả các hành vi cân bằng phi quân sự chống lại Hoa Kỳ trong một hệ thống đơn cực sau Chiến tranh Lạnh (Pape, 2005; Paul, 2004, 2005). Như T.V. Paul (2004:3) đã nêu:
Cân bằng mềm chứa đựng những hành vi cân bằng được ngầm hiểu và không bao gồm các cơ chế liên minh chính thức… Cân bằng mềm thường dựa trên các hành động như tăng cường quân sự một cách hạn chế, các hành vi hợp tác phi chính thức, hay thông qua sự hợp tác trong các thể chế quốc tế hay khu vực; những chính sách này có thể được biến đổi thành các chiến lược cân bằng cứng nếu cạnh tranh an ninh trở nên nghiêm trọng và quốc gia hùng mạnh hơn trở thành mối đe dọa.
Theo định nghĩa này, cân bằng mềm có thể được thực thi bằng nhiều cách, mà một trong những cách đó là thông qua các thể chế đa phương. Bài nghiên cứu này tập trung vào vấn đề tại sao các quốc gia lại chọn thể chế để tìm kiếm an ninh cho mình, vì vậy tôi sử dụng “cân bằng thể chế” thay vì “cân bằng mềm” để định nghĩa hành vi cân bằng của quốc gia thông qua các thể chế đa phương.
Hai dạng thức cân bằng thể chế, có thể được tạm dịch là cân bằng nội tiếp (inclusive balancing) và cân bằng ngoại tiếp (exclusive balancing). Trong khi khái niệm đầu chỉ việc ràng buộc các quốc gia có liên quan bên trong thể chế, thì khái niệm thứ hai hàm ý giữ những quốc gia đó nằm bên ngoài thể chế. Trong quá trình cân bằng nội tiếp, các quốc gia thực thi luật lệ và quy chuẩn nhằm chế ngự hành vi của những quốc gia khác, hay kiểm soát và điều khiển chương trình nghị sự sao cho phù hợp với lợi ích của mình trong các thể chế đa phương. Đối với hình thức cân bằng ngoại tiếp, các quốc gia cùng nhau củng cố sự thống nhất trong môi trường kinh tế và chính trị của của mình nhằm chống lại các sức ép từ các quốc gia bên ngoài.
Hai biến độc lập trong mô hình này chính là mức độ phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia và sự phân bổ quyền lực trong hệ thống quốc tế. Cả ba dạng trật tự quốc tế sẽ được xem xét, bao gồm trật tự đơn cực, hai cực và đa cực. Trong nghiên cứu này, sự phân bổ quyền lực liên quan tới các dạng thức trật tự quốc tế được đánh giá thông qua các tiêu chuẩn của những nhà hiện thực tân cổ điển dưới góc nhìn của các chuyên gia hoạch định chính sách (Rose, 1998). Như William Wohlforth (1994:97) đã nêu, điều thực sự quan trọng trong quá trình hoạch định chính sách không phải là bản chất của quyền lực, mà là cách thức các nhà hoạch định đánh giá về quyền lực ấy. Để có thể sử dụng sự phân bổ nguồn lực/quyền lực để giải thích hành vi quốc gia, chúng ta cần phải xác định rõ “dây đai truyền lực” mà ở đó các năng lực được biến đổi thành hành động. Quá trình đánh giá quyền lực của các nhà hoạch định chính sách được coi là cơ chế hoàn hảo giúp kết nối các tác động hệ thống của mô thức quyền lực với hành vi của các quốc gia đơn lẻ. Vì thế, sự phân bổ quyền lực hay tính phân cực của hệ thống quốc tế được đo lường dựa trên bối cảnh, thông qua góc nhìn của các nhà hoạch định chính sách quốc gia thay vì chỉ đơn thuần mang tính định lượng. Những tuyên bố công khai của các nhà lãnh đạo hay những văn kiện, tài liệu chính thức được xem như những nguồn thông tin quan trọng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nhận thức của các quốc gia.
Nhận thức được xây dựng dựa trên cả thực tế lẫn kỳ vọng. Một mặt, các đánh giá mang tính định lượng về khả năng quân sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận xét và phân tích của các nhà hoạch định chính sách về hình mẫu của quyền lực trong hệ thống. Mặt khác, kỳ vọng giúp nhận biết chính sách. Tất cả các chính sách ngoại giao đều mang tính định hướng tương lai, và tất cả các quyết định có liên quan đến nó. Dạng thức quyền lực trong kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh là không chắc chắn và tương đối mơ hồ. Mặc dù Hoa Kỳ được coi là siêu cường duy nhất trong hệ thống quốc tế, nhưng cấu trúc đơn cực này sẽ tồn tại trong bao lâu vẫn là một câu hỏi gây nên nhiều tranh luận. Làm thế nào mà các quốc gia có thể cư xử trong một môi trường bất định như vậy không chỉ dựa trên các phân tích về môi trường hiện tại mà còn phản ánh những kỳ vọng của quốc gia về các giá trị tương lai.
Bên cạnh quá trình phân bổ quyền lực, mô hình cân bằng thể chế nhấn mạnh tới tác động của sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, một nhân tố hệ thống quan trọng liên quan tới hành vi của quốc gia, nhưng lại không được chú ý bởi các nhà Tân hiện thực. Nhớ lại cuộc tranh luận giữa hai trường phái tân hiện thực và tân tự do vào thập kỷ 1990, Helen Milner (1993) và Charles Lipson (1993) đã chỉ trích Chủ nghĩa Hiện thực mới vì đã nhấn mạnh quá mức tới tác động kiềm chế của môi trường vô chính phủ tới hành vi của quốc gia, trong khi lại không để ý tới sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia đó. Bằng cách tạo nên cầu nối giữa hai chủ nghĩa tân hiện thực và tân tự do, mô hình cân bằng thể chế coi sự phụ thuộc lẫn nhau là một trong những biến độc lập nhằm giải thích hành vi của các quốc gia.
Theo định nghĩa của Robert Keohane và Joseph Nye (1989:8), phụ thuộc lẫn nhau là “những tình huống đặc trưng bởi các tác động có qua có lại giữa các quốc gia hay giữa các chủ thể ở những quốc gia khác nhau”. Keohane và Nye (1989:9) nhấn mạnh thêm rằng các tác động có qua có lại của sự phụ thuộc lẫn nhau luôn luôn bao gồm cả chi phí và lợi ích, bởi vì sự phụ thuộc lẫn nhau giới hạn tính độc lập của các quốc gia và lợi ích đạt được không phải lúc nào cũng được đảm bảo. Vì thế, sự phụ thuộc lẫn nhau sẽ trực tiếp hay gián tiếp hạn chế hành vi quốc gia, khiến cho các quốc gia phải tiến hành tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa chi phí bằng cách chọn lựa giữa một bên là cân bằng quân sự và một bên là cân bằng thể chế. Cân bằng quân sự, với định nghĩa là sử dụng hệ thống liên minh và chạy đua vũ trang nhằm chống lại các mối đe dọa hiện hữu, không phải là một chiến lược hợp lý để một quốc gia có thể đối phó với địch thủ của mình dưới tác động sâu rộng của sự phụ thuộc lẫn nhau, điều này là do bản chất kém thân thiện của chiến lược này và những tác động tiêu cực mà cân bằng quân sự có thể gây ra tới quá trình phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Cân bằng thông qua các thể chế quốc tế, vì vậy, trở thành một chiến lược thay thế dựa trên sự phụ thuộc lẫn nhau.[6]
Mặc dù trong cách tiếp cận của khái niệm “phụ thuộc lẫn nhau”, các mối liên kết an ninh và quân sự vẫn được đề cập, nhưng sự tập trung vào các mối phụ thuộc về kinh tế được giải thích bởi hai lý do. Đầu tiên, phụ thuộc lẫn nhau về an ninh hay quân sự có các đặc điểm tương đồng với quá trình phân bổ quyền lực hệ thống. Quá trình phụ thuộc lẫn nhau về quân sự có khả năng tạo ra các mối tương tác giữa hai biến độc lập. Mặc dù quyền lực có thể thay đổi theo nghĩa tuyệt đối, mô hình này giả định rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế là độc lập so với quá trình phân bổ quyền lực. Thứ hai, những tác phẩm theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa truyền thống đôi lúc tách biệt kinh tế ra khỏi các vấn đề an ninh. Mô hình cân bằng thể chế liên kết hai phạm vi nghiên cứu lại với nhau thông qua việc đưa sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế, như là một biến độc lập, vào mô hình hiện thực chủ nghĩa.
Mức độ phụ thuộc kinh tế trong mô hình cân bằng thể chế được mô tả thông qua hai tính từ: “yếu” hay “mạnh”. Hai thước đo chủ yếu để đo lường sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế là dòng chảy thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Cần phải lưu ý rằng thay vì chỉ dùng phương pháp lượng hóa, nghiên cứu này đo lường sự phụ thuộc lẫn nhau dựa theo bối cảnh cũng như tiến hành áp dụng nó theo các cặp. Đầu tiên, cách tiếp cận về nhận thức đối với quá trình phân bổ quyền lực được áp dụng nhằm đo lường tính phụ thuộc lẫn nhau. Khi mà sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng trở nên mạnh mẽ, thì khả năng các nhà hoạch định chính sách lựa chọn chiến lược cân bằng thể chế sẽ cao hơn do chi phí mà cân bằng quân sự mang lại là quá lớn. Thứ hai, để có thể nắm bắt được những động lực thúc đẩy sự phụ thuộc lẫn nhau mang tính bất đối xứng giữa các quốc gia, việc áp dụng khái niệm phụ thuộc lẫn nhau trong bài nghiên cứu này sẽ được đo lường theo cặp chủ thể.
Lý thuyết chính của mô hình cân bằng thể chế cho rằng sự tương tác giữa quá trình phân bổ quyền lực và sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế định hình nên hành vi của quốc gia, từ quá trình cân bằng cứng cho đến cân bằng mềm thông qua thể chế. Cơ chế cốt lõi mang tính nhân quả trong mô hình này là một hệ tiêu chuẩn duy lý được thể hiện thông qua các tính toán chi phí – lợi ích cũng như những kỳ vọng của quốc gia trong các quyết định chính sách. Nhận thức về sự phụ thuộc lẫn nhau của các nhà hoạch định chính sách càng mạnh mẽ thì quá trình quốc gia theo đuổi cân bằng quân sự sẽ trở nên càng tốn kém và rủi ro hơn, do đó các quốc gia sẽ càng có khả năng tham gia vào quá trình cân bằng thể chế. Tuy nhiên, những nhận thức khác nhau về trật tự quyền lực trong hệ thống quốc tế như ở Hình 1 sẽ quyết định cách thức mà các quốc gia có thể thực hiện chiến lược cân bằng thể chế: thông qua cân bằng nội tiếp, cân bằng ngoại tiếp hay thậm chí là cả hai.
Hình 1: Sự phân cực, Tính chất phụ thuộc lẫn nhau, và Quá trình cân bằng giữa các quốc gia
Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế |
|||
Yếu | Mạnh | ||
Sự phân bổ nguồn lực |
Đơn cực | Cân bằng quyền lực (chiến tranh bá quyền và chiến tranh thuộc địa có thể xảy ra) | Cân bằng thể chế: cân bằng ngoại tiếp (giữa bá chủ và các quốc gia khác)ASEAN+3 |
Hai cực | Cân bằng quyền lực giữa các khối nước (chiến tranh giữa các siêu cường tương đối khó xảy ra) | Cân bằng thể chế: cân bằng ngoại tiếp giữa hai khối nước; nội tiếp trong các khối (được dẫn dắt bởi các siêu cường) | |
Đa cực | Cân bằng quyền lực (chiến tranh giữa các nước lớn có khả năng xảy ra cao) | Cân bằng thể chế: Cân bằng nội tiếp (trói buộc các quốc gia mục tiêu vào trong các thể chế)Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) |
Ghi chú: Hai ô được tô xám sẽ được giải thích thông qua các trường hợp nghiên cứu cụ thể.
Như đã nêu ra trong Hình 1, khi mức độ phụ thuộc lẫn nhau thấp, cân bằng quyền lực sẽ trở thành hành vi chủ yếu của các quốc gia. Dưới tác động của một môi trường đơn cực và sự phụ thuộc yếu, bá chủ có thể tiến hành chiến tranh với một chi phí tương đối thấp nếu bá chủ ấy lựa chọn thực thi quyền lực của mình trên bất kỳ khu vực nào. Trong môi trường đa cực, sự phụ thuộc yếu gia tăng khả năng xảy ra chiến tranh giữa các cường quốc do chi phí cơ hội thấp xét về các mất mát về kinh tế và những tổn thương về an ninh. Trong môi trường hai cực, cả hai siêu cường đều phụ thuộc lẫn nhau rất lớn về an ninh nhưng lại khá thấp về mặt kinh tế. Tuy nhiên, trạng thái cân bằng quyền lực đã làm lu mờ những tác động tiêu cực của sự phụ thuộc kinh tế yếu ớt giữa hai siêu cường tới tính cân bằng của hệ thống và khiến cho các cuộc chiến tranh giữa hai siêu cường này khó có khả năng xảy ra.[7]
Nếu như mức độ phụ thuộc lẫn nhau cao hơn, cân bằng thể chế sẽ được thực hiện thay cho cân bằng quyền lực. Trong một thế giới đơn cực, khoảng cách quyền lực giữa bá chủ và các quốc gia khác sẽ hạn chế lựa chọn cân bằng thông qua quân sự của các quốc gia nhỏ hơn. Bá chủ vẫn có thể tự do lựa chọn hành động cho riêng mình, từ việc thực thi quyền lực tại những khu vực mà bá chủ có ảnh hưởng sâu rộng cho tới bỏ qua các khu vực có ít giá trị chiến lược. Các quốc gia khác có hai lựa chọn, đi theo và chịu sự lãnh đạo của bá chủ hay tiến hành quá trình cân bằng thể chế ngoại tiếp nhằm “chế ngự” địa vị đứng đầu của bá chủ. Những hy vọng nhằm kiềm chế bá chủ trong bất cứ thể chế nào có thể mang lại những tác dụng ngược, do bá chủ có khả năng phá vỡ bất kỳ luật lệ hay quy chuẩn nào mà bản thân cảm thấy không phù hợp, thêm vào đó bá chủ còn có khả năng điều khiển chương trình nghị sự của mọi thể chế mình tham gia.
Ví dụ trong trong thế giới đơn cực hiện tại Hoa Kỳ, đất nước quyền lực nhất, có thể tránh né hay thậm chí không tuân thủ những nghị quyết của Liên Hợp Quốc (UN) để thiết lập nên một “liên minh tự nguyện” và tiến hành chiến tranh chống lại Iraq. Vì vậy, dưới ảnh hưởng của trật tự đơn cực, lựa chọn duy nhất của các quốc gia khác nhằm chống lại sức ép từ bá chủ là tiến hành cân bằng ngoại tiếp thông qua xây dựng các thể chế đa phương mà không có sự hiện diện của bá chủ. Việc này mang lại hy vọng rằng sự thống nhất và tính kết dính của các thể chế có thể giúp các nước nhỏ hơn “nói không” với sức mạnh của bá chủ.
Trong thế giới hai cực, sự phụ thuộc lẫn nhau cao độ giữa hai siêu cường, đặc biệt là về kinh tế, cũng có thể dẫn tới cách tiếp cận cân bằng thể chế. Kinh nghiệm cho thấy, đây là một khoảng trống lớn ngăn cách hai siêu cường do Chiến tranh Lạnh là thời kỳ được mô tả bởi đối đầu ý thức hệ và cô lập kinh tế giữa hai khối. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế là hoàn toán có khả năng xảy ra. Cũng với một lập luận tương tự, cả hai siêu cường cũng có thể tham gia vào cân bằng thể chế, thông qua cả cân bằng nội tiếp và cân bằng ngoại tiếp. Trên thực tế, các siêu cường và các cường quốc nhỏ hơn đã tiếp cận với các phương thức cân bằng thể chế tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc bằng việc thiết lập và duy trì các khối bỏ phiếu trong suốt Chiến tranh Lạnh.
Trong trật tự thế giới đa cực, sự phụ thuộc lẫn nhau cao khiến cho cân bằng thể chế dễ được chấp nhận do chi phí cơ hội cho quá trình huy động các lực lượng quân sự trong nước hay thiết lập các liên minh quân sự đối kháng ở bên ngoài là rất lớn. Cả cân bằng nội tiếp và cân bằng ngoại tiếp đều là những lựa chọn khả thi cho các quốc gia mặc dù cách tiếp cận đầu tiên là phổ biến hơn. So với cân bằng thể chế nội tiếp, cân bằng ngoại tiếp được xem là kém thân thiện hơn và có thể khiến cho mối quan hệ giữa các quốc gia ở trong thể chế với các nước ở ngoài thể chế trở nên căng thẳng hơn. Tiếp đó, chính tình trạng căng thẳng trên đặt trong bối cảnh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế cao sẽ gây tổn hại đến kinh tế và an ninh của những quốc gia có liên quan và khiến cho cân bằng ngoại tiếp trở nên vô hiệu. Vì vậy, trong một trật tự đa cực với sụ phụ thuộc cao về kinh tế giữa các nước, cân bằng thể chế nội tiếp là phù hợp và hiệu quả hơn mặc dù cân bằng ngoại tiếp vẫn có thể được áp dụng.
Mối quan hệ giữa sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và xung đột quốc tế đã gây ra tranh luận trong suốt một thời gian dài. Trong khi những người ủng hộ chủ nghĩa tự do thương mại tin rằng phụ thuộc về kinh tế sẽ làm giảm khả năng xảy ra xung đột, những người theo thuyết Tân Hiện thực lại nghĩ rằng phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế làm tăng mức độ nguy hiểm của chiến tranh. Thêm vào đó, một vài học giả cho rằng thương mại có những tác động không đáng kể tới hòa bình trong khi một số khác lại cho rằng vai trò của sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế phụ thuộc vào những biến số khác, ví dụ như dân chủ, tác động tới mối quan hệ giữa các quốc gia.[8] Đứng giữa hai luồng quan điểm của Chủ nghĩa Tự do thương mại và Chủ nghĩa Hiện thực mới, tôi nghĩ rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế gia tăng chí phí của hành vi cân bằng cứng mà quốc gia sẽ thực hiện nhằm chống lại địch thủ của mình, nhưng nó cũng không hoàn toàn đảm bảo hòa bình giữa hai quốc gia.
Mô hình cân bằng thể chế không thể dự đoán trước được quá trình hợp tác giữa các quốc gia thông qua thể chế, như những gì mà Chủ nghĩa Tự do mới đã làm. Thay vào đó, nó đưa ra những dự đoán về quá trình đấu tranh, đối đầu, thương lượng, mặc cả, thỏa hiệp và cân bằng giữa các quốc gia trong môi trường thể chế. Biến phụ thuộc trong nghiên cứu này không phải là những kết quả mang tính chính trị, chiến tranh hay hòa bình giữa các nước với nhau mà là hành vi của quốc gia, dựa trên lựa chọn cân bằng quân sự hay cân bằng thể chế. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế không thể ngăn cản quốc gia lựa chọn cân bằng quân sự nếu như cách tiếp cận này mang lại nhiều hơn các lợi ích về mặt an ninh. Mô hình cân bằng thể chế chỉ ra rằng động cơ để các quốc gia lựa chọn cân bằng thể chế là lớn hơn nếu đặt trong một số điều kiện cụ thể liên quan tới các tính toán cân nhắc giữa chi phí và lợi ích mang tính duy lý trong hệ thống quốc tế.
Cân bằng nội tiếp trong ARF – “kiềm chế Trung Quốc” và “giữ chân Hoa Kỳ”
Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) được coi là diễn đàn đối thoại an ninh đa phương lớn nhất Châu Á – Thái Bình Dương với sự tham dự của tất cả các cường quốc khu vực. Các cường quốc Châu Âu tham gia vào ARF với tư cách là quan sát viên của Cộng đồng Châu Âu (EC). Các chính sách của ASEAN đối với ARF là một ví dụ cho chiến lược cân bằng thể chế nội tiếp nhắm tới Trung Quốc và Hoa Kỳ dưới tác động của hệ thống quốc tế đa cực và sự phụ thuộc cao độ về kinh tế giữa các quốc gia với nhau được miêu tả trong Hình 1.[9]
Chiến tranh Lạnh kết thúc với sự chấm dứt đối đầu giữa hai siêu cường vào năm 1991 đã làm thay đổi cấu trúc quyền lực khu vực, mang lại nhiều thách thức cũng như cơ hội cho các quốc gia ASEAN. Các cam kết an ninh kém vững chắc của Hoa Kỳ và sự trỗi dậy của Trung Quốc là hai mối lo ngại an ninh chính mà các nước ASEAN phải đối mặt. Sau Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ được coi là siêu cường duy nhất trên thế giới và một trật tự đơn cực bắt đầu được hình thành. Tuy nhiên, sự suy giảm tương đối về kinh tế của Hoa Kỳ những năm đầu thập kỷ 1990 đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới các cam kết về kinh tế và an ninh của nước này đối với các đồng minh ở châu Á. Về mặt quân sự, Hoa Kỳ đã yêu cầu Nhật Bản và Hàn Quốc chia sẻ một phần các chi phí nhằm duy trì lực lượng quân đội Mỹ đồn trú tại hai quốc gia này. Về mặt kinh tế, Hoa Kỳ thúc đẩy xây dựng kinh tế thị trường theo hướng mở ở khu vực nhằm kích thích phát triển kinh tế nội địa. Về mặt chính trị, Hoa Kỳ, từ lâu đã cung cấp các dạng hỗ trợ được ví như “củ cà rốt” cho các nước ASEAN, thì nay đã bắt sử dụng “cây gậy” của mình thông qua các vấn đề liên quan tới dân chủ và nhân quyền. Hoa Kỳ bị xem như một “kẻ xâm phạm” đến chủ quyền chính trị và văn hóa của các quốc gia trong khu vực (Stuart and Tow, 1995:12).
Mặc dù các quốc gia ASEAN đánh giá cao vai trò tích cực của Hoa Kỳ đối với an ninh khu vực, nhưng họ lại cảm thấy không yên tâm với khả năng cũng như sự sẵn sàng can dự từ các cam kết khu vực của Hoa Kỳ trong bối cảnh siêu cường này đang phải đối mặt với sự suy giảm quyền lực tương đối cũng như sự thay đổi các lợi ích chiến lược. Vì thế, việc làm thế nào để vừa có thể thu hút trở lại sự chú ý của Hoa Kỳ, vừa có thể hạn chế được một cách thấp nhất các ảnh hưởng tiêu cực từ quá trình can thiệp chính trị của Washington tại khu vực đã trở thành thách thức chiến lược chủ yếu của ASEAN sau Chiến tranh Lạnh. Trái ngược với sự suy giảm quyền lực đem lại cảm giác mơ hồ từ phía Hoa Kỳ, Trung Quốc rõ ràng là đã gia tăng sức mạnh cả về kinh tế và chính trị với mức tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm vào khoảng 8%. Ảnh hưởng ngày càng suy giảm và các cam kết đang dần mất đi hiệu lực của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á được cho là sẽ tạo ra một khoảng trống quyền lực mà ở đó, các xung đột quân sự mới cũng như cạnh tranh quyền lực ở khu vực sẽ nhanh chóng xảy ra. Với sức mạnh kinh tế và quân sự của mình, trong con mắt của các quốc gia ASEAN, Trung Quốc tự động trở thành ứng cử viên tiềm năng nhất để lấp vào khoảng trống quyền lực mà Hoa Kỳ để lại. Thêm vào đó, các tranh chấp vẫn chưa được giải quyết giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN tại biển Đông sẽ làm sâu sắc thêm mối quan ngại về “mối đe dọa Trung Quốc” (Valencia, 1995).
Tuy nhiên, quá trình phân bổ quyền lực thay đổi trong hệ thống quốc tế cũng mang lại nhiều hy vọng cho các nước ASEAN. Các tranh luận về Thế kỷ Châu Á và sự thần kỳ Châu Á nổi lên ở khu vực vào đầu thập kỷ 1990. Bên cạnh sự phát triển kinh tế ấn tượng của Trung Quốc, Nhật Bản cũng đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới kể từ thập kỷ 1980. Quyền lực kinh tế của Nhật Bản được đánh giá là có thể dễ dàng chuyển đổi thành quyền lực quân sự bất cứ khi nào mà nước này cảm thấy cần thiết. Thêm vào đó, “Bốn con hổ châu Á” (Hong Kong, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan) và ba nền kinh tế công nghiệp hóa mới ở Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia, và Thái Lan) đã cùng nhau tạo nên “điều thần kỳ Châu Á” vào đầu thập kỷ 1990 (World Bank, 1993: 1).
Trong Hình 2 chúng ta có thể nhận thấy các nền kinh tế của Trung Quốc, các quốc gia Đông Á và khu vực Thái Bình Dương đã tăng trưởng rất nhanh với tốc độ trên 5% trong khi Hoa Kỳ lại tăng trưởng tương đối thấp (dưới 5% trong hầu hết thời gian) ở thập kỷ 1980. Vì vậy, nhiều người đã cho rằng nếu như Trung Quốc và các quốc gia công nghiệp hóa khác ở Đông Nam Á có thể giữ vững được tốc độ tăng trưởng của mình sau Chiến tranh Lạnh, thì quá trình tái phân bổ quyền lực cuối cùng cũng sẽ xảy ra ở Châu Á – Thái Bình Dương. Nếu như thế kỷ 20 thuộc về Hoa Kỳ, thì thế kỷ 21 sẽ thuộc về một quốc gia Châu Á (Rohwer, 1995; Naisbitt, 1995). Wong Kan Seng (1993), khi đó giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao Singapore, đã nhận định vào tháng 7 năm 1993 rằng, “mô hình cạnh tranh hai cực trong Chiến tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô rõ ràng đã không còn tồn tại. Tuy nhiên mô hình hiện tại chưa hẳn đã là đơn cực…thực tế chính trị của thế giới hậu Chiến tranh Lạnh đang thay đổi mối quan hệ giữa các quốc gia ngang bằng nhau – một mối quan hệ đối tác đúng nghĩa”.
….
Cân bằng ngoại tiếp trong ASEAN+3 – Một khối các nước Châu Á không có Hoa Kỳ
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Xem toàn bộ nội dung văn bản tại đây: Can bang the che va ly thuyet QHQT.pdf
[1] Sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, chủ nghĩa khủng bố đã trở thành một trong những mối đe dọa an ninh tới hòa bình quốc tế, bao gồm cả Đông Nam Á. Tuy nhiên, ở Đông Nam Á, chủ nghĩa khủng bố vẫn chưa phải là mối đe dọa an ninh chủ yếu tới ổn định khu vực, mặc dù một vài quốc gia ở đây đang đối mặt với các vấn đề về liên quan tới tôn giáo cực đoan và ly khai, ví dụ như các cuộc nổi dậy tại miền nam Thái Lan hay miền nam Philippines. Về chủ nghĩa khủng bố và ảnh hưởng của nó tới nền chính trị quốc tế, xem thêm Jervis (2002).
[2] Tuy nhiên cần phải chú ý rằng, Hoa Kỳ vẫn duy trì và thậm chí tăng cường các mối quan hệ quốc phòng song phương của mình với một số quốc gia Đông Nam Á, như Singapore, Thái Lan hay Philippines sau Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, sự hợp tác quân sự giữa Hoa Kỳ và các đối tác Đông Nam Á chắc chắn không thể phát triển bằng mối quan hệ đồng minh quân sự vững chắc giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản và sự mở rộng thành công của NATO ở châu Âu trong suốt thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh. Sự không đối xứng về quyền lực giữa các quốc gia ASEAN và Hoa Kỳ đã cản trở tính hiệu quả của cân bằng song phương đối với an ninh khu vực. Vì thế, rất khó để có thể giải thích một cách đầy đủ về “nền hòa bình ngoại lệ” ở Đông Nam Á sau Chiến tranh Lạnh thông qua lăng kính của các nguyên tắc song phương do Hoa Kỳ dẫn dắt. Nghiên cứu này tập trung mô tả các cơ chế an ninh đa phương được thể chế hóa tại Đông Nam Á trong khi vẫn chấp nhận tầm quan trọng của các nguyên tắc song phương đang tồn tại.
[3] Trong một vài công trình của những học giả theo thuyết kiến tạo, phương pháp luận đã được chú ý rất nghiêm túc. Xem thêm các vấn đề đặc biệt của thế chế và xã hội hóa trong International Organization, biên tập bởi Jeffrey Checkel (2005).
[4] Về cách tiếp cận mang tính chiết trung hơn, xem Alaggapa (2003) và Katzenstein và Okawara (2001).
[5] Joseph Grieco đã đề xuất giả thuyết “cơ hội lên tiếng” trong việc phân tích sự hội nhập tiền tệ khu vực của Liên minh Châu Âu vào thập kỷ 1990. Ông cho rằng các quốc gia yếu nhưng có tầm ảnh hưởng (như Pháp hay Italy) xem thể chế như một công cụ nhằm kiềm chế các nước mạnh hơn (Đức) và gia tăng sức nặng của họ trong quá trình hoạch định chính sách khu vực. Tuy nhiên, ông đã không nêu rõ dưới điều kiện nào thì các quốc gia yếu hơn có thể sử dụng “tiếng nói” của mình để trói buộc các nước mạnh. Mô hình của những người hiện thực thể chế trong bài viết này đã thay đổi giả định cốt lõi của lý thuyết “cơ hội lên tiếng” thông qua việc giới thiệu một biến số mang tính hệ thống khác – sự phụ thuộc lẫn nhau – nhằm xác định khi nào và tại sao các quốc gia yếu hơn lại có thể sử dụng thể chế như một công cụ để theo đuổi an ninh. Thêm vào đó, mô hình cân bằng thể chế đã mở rộng tính ứng dụng của lý thuyết “cơ hội lên tiếng” từ hợp tác kinh tế sang các vấn đề an ninh.
[6] Các tranh luận của Keohane và Nye, trong đó vai trò của các tổ chức quốc tế sẽ gia tăng dưới trạng thái lý tưởng “sự phụ thuộc lẫn nhau phức tạp”, đi theo cùng một chuỗi lập luận giống như cân bằng thể chế.
[7] Cần chú ý Waltz đã biện luận rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về cả kinh tế lẫn quân sự trong một thế giới hai cực là thấp hơn trong một thế giới đa cực. Vì thế, Waltz kết luận rằng hệ thống hai cực ổn định hơn hệ thống đa cực, bởi vì sự phụ thuộc lẫn nhau thấp sẽ làm giảm nguy cơ xảy ra xung đột giữa các quốc gia (Waltz, 1979: 138, 169).
[8] Để biết tổng quan chung các nhận thức khác nhau liên quan tới sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và xung đột, xem Chương 1, Mansfield và Pollins (2003). Về tranh luận cho rằng cạnh tranh thương mại và sự lan rộng của chủ nghĩa đế quốc đã dẫn tới Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, xem Alexander (2005) và Lenin (1948). Các nhà hiện thực chủ nghĩa cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế hay cụ thể là thương mại không thể ngăn cản được xung đột và thậm chí có thể kích động chiến tranh bao gồm Waltz (1979) và Gilpin (1981). Tranh luận đối lập cho rằng thương mại và sự phụ thuộc lẫn nhau có thể làm giảm bớt hay ngăn chặn chiến tranh là của Rosecrance (1986) và trong Chương 2, Keohane và Nye (1989).
[9] ASEAN hiện tại có 10 quốc gia thành viên và về thực chất, ASEAN không có chính sách đối ngoại chung. Tuy nhiên, uy tín quốc tế của hầu hết các quốc gia ASEAN được xây dựng dựa trên sự hợp tác về mặt ngoại giao và xây dựng chính sách đối ngoại trên trường quốc tế, ví dụ như làm trung gian cho khủng hoảng tại Campuchia trong thập kỷ 1980. Vì thế, nghiên cứu này tập trung vào điểm hội tụ của hợp tác về thực thi chính sách đối ngoại giữa các nước ASEAN liên quan tới các thể chế đa phương sau Chiến tranh Lạnh, đồng thời cũng nêu ra những quan tâm chiến lược khác nhau của các nước khi cần thiết.