Củng cố vị trí trung tâm của ASEAN trong bối cảnh TPP

asean-shutterstock-20131122

Tác giả: Trần Thị Bảo Hương

Tóm tắt: ASEAN không chỉ sáng lập và tích cực thúc đẩy hợp tác Đông Á mà còn nắm giữ vị trí trung tâm trong hợp tác khu vực. Tuy nhiên, hiện trạng hợp tác khu vực tại Đông Á tương đối phức tạp, cơ chế hợp tác đa dạng, thậm chí chồng chéo nhau, nhưng quy chế hợp tác lỏng lẻo; thêm vào đó là vấn đề cạnh tranh về quyền lãnh đạo khu vực của các nước lớn cũng như năng lực lãnh đạo của bản thân ASEAN gần đây giảm đi đáng kể… là những lý do khiến ASEAN gặp nhiều khó khăn trong việc lãnh đạo hợp tác khu vực, thậm chí vai trò lãnh đạo bị suy yếu dần. Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) ra đời như là một biến số mới khiến vai trò chủ đạo của ASEAN gặp càng nhiều khó khăn, thách thức. Bài viết này đề xuất một số biện pháp mà ASEAN và các nước Đông Á cần làm để giữ vững và củng cố vị trí trung tâm của ASEAN trong hợp tác khu vực trước tình hình mới.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, trọng tâm kinh tế và chính trị thế giới chuyển dịch dần về hướng Châu Á – Thái Bình Dương, trọng tâm của châu Á – Thái Bình Dương lại đổ dồn về châu Á, và trọng tâm của châu Á lại quy về khu vực Đông Á. Phương hướng khuôn khổ hợp tác của khu vực Đông Á đến nay vẫn chưa định hình rõ, trước mắt vẫn sử dụng ASEAN+3 làm kênh hợp tác chính. ASEAN xuất phát từ đặc thù riêng, tuy khó khăn chồng chất, nhưng vẫn đảm bảo được địa vị chủ đạo của nó. ASEAN không chỉ sáng lập và tích cực thúc đẩy hợp tác Đông Á mà còn nắm giữ vai trò chủ đạo trong hợp tác khu vực. Tuy nhiên, hiện trạng hợp tác khu vực tại Đông Á tương đối phức tạp, cơ chế hợp tác đa dạng, thậm chí chồng chéo nhau, nhưng quy chế hợp tác lỏng lẻo; thêm vào đó là vấn đề cạnh tranh về quyền lãnh đạo khu vực của các nước lớn cũng như năng lực lãnh đạo của bản thân ASEAN gần đây giảm đi đáng kể… là những lý do khiến ASEAN gặp nhiều khó khăn trong việc lãnh đạo hợp tác khu vực, thậm chí vai trò lãnh đạo bị suy yếu dần. Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) ra đời như là một biến số mới khiến vai trò chủ đạo của ASEAN gặp càng nhiều khó khăn, thách thức.

Trong bài viết trước, tác giả đã phân tích về vai trò trung tâm của ASEAN và tác động của TPP đối với vai trò của ASEAN trong hợp tác khu vực Đông Á.[1] Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả xin đưa ra một số biện pháp hành động của ASEAN và các nước Đông Á nhằm duy trì và phát huy vai trò chủ đạo trong hợp tác của ASEAN  ở khu vực trong bối cảnh mới.

Lịch sử đã chứng minh ASEAN có năng lực lãnh đạo hợp tác khu vực Đông Á, đồng thời, dưới sự lãnh đạo của ASEAN, hợp tác Đông Á không ngừng phát triển. Do đó, hợp tác khu vực cần thiết có vai trò chủ đạo của ASEAN, đồng thời cũng cần thiết phải tăng cường và phát huy vai trò chủ đạo của ASEAN nhằm duy trì đà hợp tác phát triển thuận lợi trong khu vực Đông Á. Bản thân ASEAN cũng mong muốn trở thành lực lượng thúc đẩy (driving force) và nắm giữ vị trí trung tâm (centrality) trong hợp tác khu vực Đông Á. [2] Tuy nhiên, để duy trì và củng cố vị trí trung tâm của ASEAN trong hợp tác khu vực thì không chỉ cần thiết có sự nỗ lực của các nước Đông Nam Á, mà còn cần đến sự ủng hộ và phối hợp của các nước Đông Á nói chung cũng như nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc lựa chọn hình thức hợp tác khu vực phù hợp.

1. Đối với nội bộ ASEAN

1.1 Tăng cường sức mạnh tổng thể của ASEAN, đặc biệt chú trọng xây dựng năng lực

ASEAN gặp nhiều khó khăn trong việc phát huy vai trò chủ đạo trong tình hình mới, đặc biệt là sau khi mở rộng hợp tác khu vực, trước hết xuất phát từ bản thân ASEAN: khoảng cách phát triển và mâu thuẫn nội khối, năng lực lãnh đạo suy giảm, thiếu niềm tin chính trị…Vì vậy, để đối phó TPP, đảm bảo vai trò chủ đạo của ASEAN trong hợp tác khu vực, nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của ASEAN là phải nâng cao sức mạnh tổng thể của mình, trong đó cần chú trọng tăng cường năng lực, đặc biệt là năng lực lãnh đạo.

Nếu không muốn bị “tan chảy”, ASEAN phải đóng vai trò trung tâm trong hợp tác khu vực, mà việc ASEAN có thể phát huy vai trò chủ đạo hay không phần lớn phụ thuộc vào sức mạnh của chính ASEAN, trong đó ASEAN phải trở thành một lực lượng mạnh mẽ, như Đức và Pháp trong Liên minh châu Âu (EU) hoặc Hoa Kỳ trong Khu thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Do đó, ASEAN cần tăng cường sức mạnh tổng thể, bao gồm cả sức mạnh cứng (hard power) và sức mạnh mềm (soft power).

Vật chất quyết định ý thức, do đó, sức mạnh cứng đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, mà sức mạnh cứng lại được quyết định chính bởi sức mạnh về kinh tế, bởi kinh tế phát triển không chỉ có thể cải thiện dân sinh, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường, tăng cường sức mạnh quân sự, hoàn thiện hệ thống xã hội, hệ thống chính trị và quan hệ đối ngoại… mà còn có thể thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội, qua đó tăng cường sức mạnh tổng thể, hoàn thiện hình ảnh và cải thiện hành vi quốc gia. Sức mạnh kinh tế là thành phần quan trọng nhất để tạo nên sức mạnh tổng thể. Do đó, để tăng cường sức mạnh tổng thể của mình trên thực tế, ASEAN phải tập trung vào phát triển kinh tế, để thành công trong phát triển kinh tế tạo tiền đề phát triển cho các lĩnh vực khác. Chỉ trên một nền tảng sức mạnh tổng hợp vững chắc, ASEAN mới có thể đóng vai trò lớn hơn, có sức ảnh hưởng hơn và có thể duy trì quyền chủ đạo của mình trong hợp tác khu vực.

ASEAN vốn tương đối quan tâm đến việc xây dựng năng lực, thể hiện ở việc ưu tiên hợp tác vễ kỹ thuật, đào tạo nhân lực và hợp tác theo các lĩnh vực. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đặc biệt là trong bối cảnh ASEAN có nguy cơ bị các nước lớn “thâu tóm”, ASEAN phải chú ý nhiều hơn đến công tác xây dựng năng lực, cần kịp thời phát hiện, đề bạt và đào tạo, bồi dưỡng các tài năng trẻ nhằm tạo ra được một đội ngũ lãnh đạo thế hệ mới ưu tú, xuất sắc có thể thay thế cho các thế hệ đi trước như Lý Quang Diệu, Mahathir bin Mohamad v.v… lãnh đạo ASEAN, làm cho ASEAN phát triển lớn mạnh hơn, phát huy vai trò lớn hơn trongkhu vực.

Đồng thời, ASEAN cũng cần tiếp tục tăng cường hợp tác Bắc-Nam với các nước phát triển, thông qua hợp tác học hỏi kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý để tăng cường xây dựng năng lực. Ngoài ra, ASEAN cũng cần chú trọng ngoại giao “kênh 2”[3] và kết hợp phát huy tri thức hiền tài của cả ba kênh: quan chức cấp cao, các nhà sản xuất và đội ngũ nghiên cứu học thuật để tăng cường xây dựng năng lực.

1.2 Thu hẹp khoảng cách và sự khác biệt nội bộ, tăng cường niềm tin chính trị nội khối

Tuy tiến hành hội nhập nhưng nội bộ ASEAN vẫn tồn tại không ít khoảng cách và bất đồng. Nội bộ ASEAN tương đối phức tạp. Mười nước thành viên có hệ thống chính trị (bao gồm cả chế độ nhà nước và chế độ chính trị) khác nhau, trình độ phát triển không đồng đều, mỗi quốc gia đều có rất nhiều dân tộc (hoặc bộ lạc), tôn giáo, cộng với những mâu thuẫn mang tính chất lịch sử, chẳng hạn tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải… Do đó, xét một cách khách quan, từ nội bộ từng nước đến tổng thể toàn khối ASEAN đều khó có sự hài hòa, thậm chí là khác biệt, rất dễ dẫn đến mâu thuẫn. Đặc biệt, tình hình khu vực thời gian gần đây tương đốiphức tạp, quan điểm của các nước về một số vấn đề lớn không thống nhất.  Đặc biệt, năm 2012, lần đầu tiên trong 45 năm hợp tác, ASEAN không thể ra được thông cáo chung sau hội nghị, [4]chứng tỏ khả năng đoàn kết nội khối ASEAN đang gặp phải vấn đề lớn, thậm chí rất dễ bị chia rẽ.

Những ai thuộc về khu vực văn hóa phương Đông có lẽ đều hiểu về chân lý “đoàn kết là sức mạnh”. Như trong “Câu chuyện bó đũa”, 10 nước ASEAN như mười chiếc đũa, nếu bó lại với nhau thành một khối sẽ kiên cố như sắt, nhưng nếu chia ra từng chiếc sẽ bị bẻ gãy rất dễ dàng. Những sự kiện xảy ra gần đây như sự kiện Bãi cạn Scarborough (phía Trung Quốc gọi là Hoàng Nham), Hội nghị thượng đỉnh ASEAN, Hội nghị thượng đỉnh Đông Á…cho thấy rằng sự gắn bó, đoàn kếtcũng như sức mạnh của ASEAN hiện nay rất có vấn đề. Muốn phát triển mạnh, ASEAN cần thiết phải thu hẹp khoảng cách và sự khác biệt giữa các nước, nâng cao lòng tin chính trị, tăng cường tình đoàn kết, phát huy sự gắn bó lẫn nhau. ASEAN một mặt tập trung phát triển kinh tế, thu hẹp mức độ phát triển của các nước, mặt khác phải giương cao ngọn cờ “chủ nghĩa khu vực mới” [5], tăng cường hợp tác và giao lưu chính trị, xã hội, văn hóa trên tinh thần “cầu đồng tồn dị” (chấp nhận sự khác biệt, cố tìm ra điểm chung), cùng có lợi, nội bộ các nước cần có thái độ cởi mở, bao dung, tăng cường tin cậy lẫn nhau về chính trị để xây dựng một ASEAN đoàn kết, hùng mạnh.

1.3 Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Cộng đồng ASEAN, nâng cao mức độ thể chế hóa

Một trong những lý do khiến vai trò chủ đạo của ASEAN trong hợp tác Đông Á suy yếu đi nhiều là vì ASEAN đang tập trung đầu tư vào xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Tuy nhiên, ASEAN luôn làm việc theo phong cách tịnh tiến, “tiến dần từng bước”, từ nhỏ đến lớn, trước tiên muốn tập trung xây dựng và hoàn thiện ASEAN rồi mới mở rộng hợp tác. Từ lịch sử phát triển của hội nhập ASEAN và hợp tác khu vực Đông Á cũng có thể thấy rằng: ASEAN phát triển hợp tác dần dần, từ ASEAN đến ASEAN+1, kế tiếp mới mở rộng thành ASEAN+3, ASEAN+6, ASEAN+8… Bản thân ASEAN cũng nhận ra được, trong quá trình mở rộng hợp tác khu vực, ASEAN mất dần lợi thế về quyền chủ đạo. Nguyên Tổng thư ký ASEAN Surin Pitsuwan trên Thời báo Bangkok Times đã từng cảnh báo với ASEAN: ASEAN đang phải đối mặt với vấn đề bị các nước đối thoại, đặc biệt là các cường quốc thao túng… ASEAN không nên mở rộng quá nhiều diễn đàn, tránh dẫn đến việc khó duy trì vị trí chủ đạo của mình.[6] Vì vậy rất dễ hiểu tại sao ASEAN không chỉ cần thiết phải cần tăng cường công tác xây dựng cộng đồng mà còn cần thiết phải đẩy nhanh tiến trình này. Đặc biệt là dưới sự tham dự của các nước lớn vào khu vực ngày càng tích cực, ASEAN càng phải đẩy nhanh tốc độ hoàn thiện thể chế, sớm hoàn thành công tác xây dựng Cộng đồng ASEAN. Tiến trình hội nhập khu vực Đông Á liên quan mật thiết đến vai trò chủ đạo của ASEAN, do đó ASEAN cần sớm hoàn thành việc xây dựng cộng đồng. Sớm hoàn thành việc xây dựng Cộng đồng ASEAN một mặt giúp ASEAN nâng cao sức mạnh, một mặt giúp ASEAN có thể tập trung đầu tư nhiều hơn thời gian và nguồn lực của mình trong việc thúc đẩy hợp tác Đông Á, đối phó với những thách thức đến từ sự can thiệp và tranh giành quyền chủ đạo của các nước lớn nhằm tiếp tục duy trì và phát huy vai trò chủ đạo của ASEAN trong hợp tác khu vực.

Cùng với việc đẩy nhanh tốc độ xây dựng cộng đồng, ASEAN cũng cần tăng cường công tác xây dựng thể chế, nâng cao mức độ thể chế hóa trong hợp tác. Xét theo tiêu chuẩn về lý thuyết phân cấp trong hệ thống quốc tế của JamesRosenau thì cơ chế hợp tác là một trong những thách thức trước mắt đối với ASEAN. Mức độ thể chế hóa chính là một trong những phương tiện quan trọng để một tổ chức có thể tồn tại bền vững. Do đó, muốn hùng mạnh, ASEAN nên đẩy mạnh việc thể chế hóa. Mức độ thể chế hóa của ASEAN có liên quan mật thiết đến công tác xây dựng Cộng đồng ASEAN. Đẩy mạnh thể chế hóa có tác dụng thúc đẩy, đẩy nhanh tốc độ hội nhập, rút ngắn tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN; ngược lại, đẩy nhanh xây dựng Cộng đồng ASEAN cũng chính là một trong những biện pháp cải thiện mức độ thể chế hóa trong hợp tác. ASEAN là tâm điểm trong hợp tác Đông Á, nhưng cơ chế hợp tác chủ yếu vẫn dựa vào “phương thức ASEAN”, nguyên tắc“đồng thuận” và “không can thiệp nội bộ”, chủ yếu dựa vào việc triển khai các tuyên bố chung của lãnh đạo sau các kỳ hội nghị, thiếu yếu tố ràng buộc cần thiết. Trong nghiên cứu của Walter Mattli về tiến trình hội nhập của ASEAN thì, so với Châu Âu, trong những nguyên nhân “thất bại” của ASEAN có hai lý do quan trọng, đó là mức độ thể chế hóa thấp và thiếu vai trò của “nước lãnh đạo”.[7] Vì vậy, trong tương lai, ASEAN nếu muốn tiếp tục phát triển thành một cộng đồng vững mạnh thì phải nâng cao trình độ thể chế hóa của nó, trong đó quan trọng nhất, ngoài việc nâng cao vai trò của “nước trọng tâm”, rất cần thiết phải nâng cao mức độ thể chế hóa trong tiến trình hội nhập.

Mặc dù ASEAN tiến hành hội nhập tương đối sớm, nhưng nếu xét theo lý thuyết về hội nhập thì quá trình hội nhập của ASEAN vẫn chỉ nằm trong giai đoạn khởi đầu, chỉ là sự hợp tác ở tầm cao giữa chính phủ các nước, chứ chưa hình thành được một cơ chế “siêu quốc gia” về thực chất. Hội nhập là quá trình các quốc gia chủ quyền chuyển giao chủ quyền quốc gia của nước mình cho một thực thể chính trị “siêu quốc gia” một cách tự nguyện nhằm chia sẻ hàng hóa công cộng (public goods) một cách bình đẳng. Chuyển giao chủ quyền là một trong những tính năng cơ bản của hội nhập, nhưng mức độ chuyển giao chủ quyền của ASEAN vẫn chưa đủ, các nước đều không tự nguyện thúc đẩy ASEAN phát triển thành một tổ chức “siêu quốc gia”, vì vậy ASEAN về thực chất vẫn chỉ là một hiệp hội hợp tác liên chính phủ, chứ không phải là một liên minh “siêu quốc gia”, do đó, quyền uy của ASEAN không đủ lớn, dẫn đến vai trò chủ đạo hợp tác trong khu vực cũng không được như mong muốn. Các nước Đông Á do sự khác biệt lớn văn hóa, chính trị, mức độ phát triển, niềm tin chính trị không đủ lớn, hàng hóa công cộng (public goods) ít, dẫn đến mức độ chuyển giao chủ quyền không đủ mạnh, mà chuyển giao và chia sẻ chủ quyền là một trong những điều kiện tiên quyết quan trọng nhất trong hội nhập. ASEAN quá chú trọng yếu tố bình đẳng và xem xét lợi ích riêng nên chuyển giao và chia sẻ chủ quyền chưa đủ, do đó chưa hình thành được một cơ cấu mang tính siêu quốc gia, khiến ASEAN như một đoàn tàu nhưng không có toa dẫn đầu, không phát huy được hiệu quả lãnh đạo tập thể ở tầm cao, thậm chí khiến vấn đề lãnh đạo tập thể đối diện với không ít thách thức, dẫn đến sự chậm chạp của ASEAN trong hội nhập. Nếu giữa các quốc gia ASEAN thiếu tin tưởng lẫn nhau về mặt chính trị, không muốn chuyển nhượng chủ quyền mạnh mẽ, thì ASEAN dễ có khả năng trở thành lực lượng “ngoại biên” (periphery) trong chính tiến trình hội nhập khu vực đang định hình này. Vì vậy, ASEAN nên nâng cao mức độ thể chế hóa, đẩy nhanh việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, nâng cao quyền uy của ASEAN, làm mới bản thân để lớn mạnh lên, đồng thời có thể đầu tư nhiều hơn thời gian, nguồn lực vào việc thúc đẩy hợp tác khu vực nhằm duy trì, phát huy vai trò chủ đạo của mình trong hợp tác khu vực.

1.4 Nâng cao vai trò các quốc gia trọng tâm

Indonesia, Singapore là những quốc giaphát triển nhanh nhấtcủa ASEAN, trong đó Indonesia trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 đã từng đóng vai trò lãnh đạo về mặt chính trị, thậm chí đóng vai trò “Hội trưởng” ASEAN; Singapore cũng là một trong bốn con rồng châu Á, giữ vị trí “cố vấn” cho ASEAN trong một thời gian dài.[8] Nền kinh tế hai quốc gia này phát triển nhanh chóng, nhưng tốc độ phát triển chung của ASEAN tương đối chậm chạp, do đó Indonesia và Singapore rất nóng lòng, khôngthể”chờ đợi”, hơn nữa, dưới sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của hai nước này cũng không tránh khỏi ảnh hưởng, để phục hồi nền kinh tế trong nước, hai nước này phải tìm kiếm sự hợp tác từ “bên ngoài” khu vực, không còn quá chú trọng đến vấn đề ASEAN. Sự chuyển hướng về mối quan tâm của hai nước này cũng xuất phát từ một lý do khác. Phát triển đến một mức độ nhất định, Indonesia và Singapore chắc chắn cảm thấy không gian phát triển của ASEAN không đủ, do đó muốn thoát ra khỏi cái bóng của ASEAN, cố gắng tiến vào hàng ngũ các nước phát triển, vươn lên phát huy vai trò của mình trên các vũ đài quốc tế lớn hơn.

Như đã đề cập ở trên, một trong những nguyên nhân khiến vai trò chủ đạo của ASEAN gặp khó khăn là do thiếu quốc gia lãnh đạo. Một đoàn tàu không có đầu tàu khiến ASEAN phân tán lực lượng, tiến bước chậm chạp, làm chậm lại quá trình hội nhập đúng ra phải có của ASEAN. Điều này đương nhiên sẽ làm ảnh hưởng đến quyền chủ đạo của ASEAN trong hợp tác khu vực Đông Á. Sự thành công trong hội nhập của các khu vực đa phần cần phải dựa vào vai trò dẫn đầu của một hoặc một vài quốc gia trọng tâm. Chẳng hạn, Liên minh châu Âu nhờ có Pháp và Đức, Khu thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA)do Hoa Kỳ dẫn đầu v.v… Kết hợp giữa lý luận hội nhập phương Tây và thực tiễn hội nhập của ASEAN, thì các nước có trình độ phát triển mạnh nhất trong khối như Indonesia và Singapore, đặc biệt là Indonesia – quốc gia lớn nhất khu vực ASEAN, tuy không phải là quốc gia lãnh đạo ASEAN nhưng cũng cần phát huy vai trò lớn hơn nữa trong ASEAN, cần tích cực hơn nữa trong công tác ASEAN. Các nước khác trong ASEAN cũng nên nhận thức được và đánh giá cao về vấn đề này, đồng thời khuyến khích các nước này phát huy vai trò lớn hơn. Các nước ASEAN nên nghĩ đến lợi ích chung để tiến hành đàm phán, thương lượng về vấn đề vai trò của các nước trọng tâm nhằm tránh xảy ra hiệu ứng “ly tâm” trong hợp tác. Việc các nước trọng tâm phát huy vai trò lớn hơn nữa trong công tác hội nhập ASEAN sẽ có tác dụng lớn trong việc chấn hưng ASEAN, làm cho ASEAN mạnh hơn, đồng thời duy trì vị trí chủ đạo của ASEAN trong hợp tác khu vực.

2. Đối với hình thức hợp tác khu vực

2.1 Tăng cường hợp tác ASEAN+3

ASEAN+3 (APT) đến nay đã phát triển được hơn 15 năm và vẫn là kênh chính cho hợp tác khu vực Đông Á. Hợp tác ASEAN+3 đóng vai trò tương đối quan trọng, không chỉ đối với từng nước riêng lẻ mà cả đối với toàn bộ khu vực nói chung, giúp tăng cường sức mạnh kinh tế, tăng cường đoàn kết, bảo vệ an ninh, hòa bình và ổn định khu vực, nâng cao vị thế quốc tế của các nước và của cả khu vực, đồng thời thúc đẩy hội nhập khu vực Đông Á.

Ở cấp quốc gia, hợp tác khu vực ASEAN+3 có thể tăng cường sức mạnh kinh tế, thúc đẩy sự đoàn kết giữa các nước Đông Á, duy trì an ninh và ổn định khu vực. Từ góc độ khu vực, hợp tác ASEAN+3 có thể thúc đẩy hội nhập, đồng thời trở thành một mắt xích quan trọng trong tiến trình mở rộng hội nhập khu vực: từ một ASEAN lỏng lẻo đến một ASEAN lớn mạnh, sau đó là ASEAN+1, ASEAN+3, ASEAN+6, ASEAN+8 v.v… Mở rộng hội nhập khu vực không chỉ gia tăng các quốc gia thành viên, mà còn thể hiện ở mức độ thể chế hóa: Từ “Phương thức ASEAN” đến “Hiến chương ASEAN”, từ “ASEAN” đến “Cộng đồng ASEAN”, từ “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN” (EAFTA) đến “Cộng đồng kinh tế Đông Á” (EAEC), tiếp theo là “Cộng đồng Đông Á” (EAC), “Đối tác Kinh tế Toàn diện Đông Á(CEPEA ) và “Đối tác kinh tế toàn diệnkhu vực” (RCEP) v.v…Xét về cơ chế hợp tác khu vực thì ASEAN+3(APT) là một bước nền tảng quan trọng để thực hiện sâu rộng về hội nhập khu vực. Hợp tác ASEAN+3 còn mang ý nghĩa toàn cầu ở chỗ, một mặt, nó thúc đẩy quá trình hội nhập, nâng cao vị thế quốc tế của các nước Đông Á nói riêng và cả toàn khu vực Đông Á nói chung; mặt khác, góp phần thay đổi cục diện khu vực, biến một khu vực vốn được xem là vô cùng hỗn loạn trở thành một trong những khu vực hòa bình, ổn định, phát triển năng động, đóng góp vào việc tạo ra một thế giới hòa bình, phát triển, thịnh vượng. ASEAN là trung tâm hợp tác ở Đông Á, đã tăng cường sự gắn kết và sức mạnh toàn diện khu vực, làm cho toàn bộ khu vực trong hệ thống quốc tế đóng một vai trò lớn hơn, quan trọng hơn trong bức tranh toàn cảnh về cả kinh tế và chính trị thế giới.

Hợp tác ASEAN+3 rất quan trọng đối với tất cả các nước Đông Á, trong quá trình đó, ASEAN đã tích cực phát huy vai trò chủ đạo, và được các nước công nhận. Cộng đồng các nước Đông Á đều thống nhất công nhận tầm quan trọng của hợp tác ASEAN+3 cũng như vai trò chủ đạo của ASEAN trong quá trình hợp tác khu vực.[9] Vì vậy, các nước Đông Á, đặc biệt là ASEAN, đã dốc hết sức, dùng hành động thiết thực để thúc đẩy, tăng cường hợp tác ASEAN+3 như tăng cường sự đồng thuận chính trị và nhận thức khu vực của chính phủ các nước, đẩy nhanh tiến độ thực hiện Kế hoạch công tác ASEAN+3 giai đoạn 2007-2017, mở rộng Kế hoạch tổng thể về Kết nối ASEAN thành Kế hoạch tổng thể về kết nối Đông Á, đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu mậu dịch tự do Đông Á, tạo điều kiện tốt hơn trong sự thúc đẩy phát triển kinh tế ở Đông Á, đặt nền móng cho việc xây dựng Cộng đồng Kinh tế Đông Á và Cộng đồng Đông Á, tăng cường nghiên cứu “kênh 2” đối với hợp tác ASEAN+3 nhằm đưa ra các kiến nghị về chính sách có giá trị cho quá trình hợp tác ASEAN+3, v.v…

Không ít học giả cho rằng hợp tác Đông Á có đặc trưng của chủ nghĩa khu vực mới: “đa dạng”, “cởi mở”, “bình đẳng”, vượt qua ranh giới “lấy quốc gia làm trung tâm” và “giới hạn trong quan hệ Bắc-Nam”. Tác giả hoàn toàn đồng ý rằng cơ chế hợp tác ASEAN+3 là một cơ chế hợp tác về chức năng một cách chính chắn, hiệu quả nhất, là kênh hợp tác chính của khu vực Đông Á, là sợi mì trong “bát mì Ý”. Hiện nay hợp tác ASEAN+3 tuy đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng thể chế kinh tế, chính trị của các nước ASEAN+3 rất đa dạng, sự phát triển kinh tế lại không đồng đều, ngoài ra còn có sự khác biệt về các mặt như văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, hình thái ý thức… và một số sự kiện tranh chấp xảy ra trên thực tế đã dẫn đến thiếu sự tin tưởng về chính trị giữa các quốc gia. Thiếu sự thúc đẩy mạnh mẽ về ý chí chính trị đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến trình hợp tác ASEAN+3. Vì vậy, các nước Đông Á cần chú trọng hợp tác ASEAN+3. Trong đó, quan trọng nhất là tăng cường  sự tin cậy lẫn nhau về chính trị giữa các quốc gia. Chỉ cần các bên có đủ ý chí chính trị và tin cậy lẫn nhau, cùng cố gắng xây dựng ASEAN+3, thì hợp tác Đông Á mới có thể tiếp tục tiến về phía trước. Ngoài ra, các nước cũng cần có biện pháp cụ thể hơn để nâng cao sự gắn kết trong ASEAN+3, tăng cường hợp tác trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực nhằm thúc đẩy hợp tác Đông Á.

Hợp tác ASEAN+3 phát triển một cách thuận lợi không chỉ tạo điều kiện phát triển cho các nước Đông Á mà còn có thể giúp ASEAN duy trì và phát huy vai trò chủ đạo. ASEAN chỉ có thể duy trì và phát huy tối đa vai trò chủ đạo và vị trí trung tâm của mình trong  một môi trường khu vực Đông Á hài hòa và phát triển giàu mạnh. Do đó, tăng cường hợp tác ASEAN+3 có ý nghĩa to lớn đối với việc duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN. Chỉ trên tiền đề thực hiện tốt hợp tác ASEAN+3 thì mới có thể mở rộng và phát triển các khuôn khổ hợp tác khác như EAFTA, ASEAN+6 (EAS), CEPEA, RCEP v.v… mà các khuôn khổ hợp tác này đều có thể tạo điều kiện cho ASEAN củng cố vai trò chủ đạo của mình trong hợp tác khu vực.

2.2 Nhấn mạnh cơ chế đối thoại “ASEAN+” trong hợp tác

Từ thực tiễn trong diễn biến về quan hệ đối ngoại của ASEAN cho thấy, ASEAN không ngừng hoàn thiện cơ chế đối thoại với các đối tác, nỗ lực xây dựng một kết cấu khu vực lấy ASEAN làm trung tâm. Từ năm 1992, ASEAN đã bắt đầu xây dựng cơ chế đối thoại “ASEAN+”,nỗ lực hoàn thiện và mở rộng cơ chế này nhằm duy trì vị trí trung tâm của ASEAN thông qua một kết cấu khu vực mang tính chất tịnh tiến, chủ yếu phản ánh ở hai khía cạnh kinh tế và an ninh chính trị.

Trong quá trình hợp tác ra bên ngoài, ASEAN luôn lấy cơ chế đối thoại “ASEAN+” làm cơ sở. “ASEAN+” là cơ chế hoạt động lấy ASEAN làm trọng tâm, sử dụng một loạt các cơ chế ASEAN+1 làm nền tảng và các khuôn khổ ASEAN+3 (APT), ASEAN+6 hay ASEAN+8 (EAS),ARF… làm diễn đàn hoạt động. Các cơ chế hợp tác ASEAN+1, ASEAN+3, ASEAN+6 hay ASEAN+8 (EAS) đều là sự mở rộng mang tính chất tịnh tiến của cơ chế“ASEAN+”, mà loại cơ chế hợp tác “ASEAN+” về thực chất là triển khai hợp tác quanh trục ASEAN, lấy ASEAN làm nền tảng, làm trung tâm để mở rộng hợp tác. Mục đích của ASEAN trong việc xây dựng cơ chế hợp tác “ASEAN+”thể hiện ở chỗ: Về mặt kinh tế, chủ yếu là giúp ASEAN mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút ngày càng nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài; Về mặt chính trị, chủ yếu thúc đẩy nước đối thoại chấp nhận quy tắc ứng xử của ASEAN, từ đó mở rộng tầm ảnh hưởng chính trị của  ASEAN. Cấu trúc “ASEAN+” một mặt thúc đẩy hợp tác, duy trì sự phát triển và hòa bình của khu vực, một mặt mở rộng hợp tác khu vực từ Đông Nam Á ra toàn Đông Á, kích thích sự phát triển của hợp tác khu vực, giúp ASEAN thực thi chiến lược cân bằng nước lớn, từ đó nắm vai trò và vị thế đặc biệt trong cấu trúc khu vực.

Việc cơ chế đối thoại “ASEAN+” phát huy hiệu ứng domino[10] trên thực tế đã phát huy sự đoàn kết của ASEAN, bảo đảm lợi thế ASEAN trong quá trình mở rộng hợp tác. Tiếp tục tăng cường và mở rộng ảnh hưởng của cơ chế đối thoại này có tác dụng rất lớn trong việc giúp ASEAN giữ vững vị trí trung tâm và vai trò chủ đạo trong hợp tác khu vực. Cơ chế đối thoại “ASEAN+” lấy 10 nước ASEAN làm một khối, được phát triển theo một cách riêng, có chức năng tập trung sức mạnh, giữ được thế đối trọng trong quá trình hợp tác với bên ngoài, vừa giúp ASEAN học tập được nhiều kinh nghiệm phù hợp với thực tiễn phát triển,[11] khiến ASEAN có sức mạnh to lớn như trong “Câu chuyện bó đũa”. Cơ chế hợp tác lấy ASEAN làm trung tâm không chỉ giúp ASEAN thể chế hóa việc trao đổi lợi ích với các nước mà còn trao cho ASEAN một loại quyền lực mang tính chức năng. Quyền lực mang tính chức năng này một mặt tăng cường vai trò chủ đạo và vị thế cốt lõi trong hợp tác khu vực Đông Á của ASEAN, mặt khác hình thành một mô hình trao đổi lợi ích của ASEAN.[12] Chỉ cần giữ vững hình thức đối thoại “ASEAN+”, ASEAN sẽ có thể tiếp tục dẫn đầu hợp tác Đông Á, miễn là cấu trúc “ASEAN+” không tan rã, ASEAN sẽ có thể duy trì vai trò chủ đạo và vị thế trung  tâm của mình. Đây là biểu hiện ASEAN trở thành một “cộng đồng ngoại giao”, cũng là kinh nghiệm thành công của ASEAN trong quá trình mở rộng hợp tác, vì vậy ASEAN cần phát triển cơ chế này thành mô hình hợp tác của riêng ASEAN.

“Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, đoàn kết chính là sức mạnh. Sự đoàn kết của ASEAN chính là sức mạnh của ASEAN, do đó, ASEAN cần tiếp tục phát huy hình thức hợp tác “ASEAN+”, chọn phương thức hành động tập thể, kiên quyết tiếp tục sử dụng cơ chế “ASEAN+” trong đối thoại và đàm phán với các nước, khu vực, chẳng hạn như APT, EAS, ARF, CEAPEA, RCEP, DOC và đặc biệt là COC, TPP, như thế mới tiếp tục thực hiện thành công chiến lược “cân bằng nước lớn”, nâng cao ưu thế của ASEAN trong hợp tác. Mỗi nước thành viên của ASEAN nếu đơn độc một mình trong đàm phán, chỉ dựa vào sức mạnh đơn lẻ của mình thì sẽ gặp rủi ro lớn, chỉ xuất hiện với tư cách là một “cộng đồng”, phát huy sức mạnh và trí tuệ tập thể thì không những đảm bảo được lợi ích của các nước thành viên ASEAN mà còn có thể đảm bảo được vai trò và vị thế của ASEAN. Ngoài ra, ASEAN còn cần phải “dùng tiến trình để tạo ra tiến trình”, tức, chủ động sử dụng cơ chế “ASEAN+” tích cực tham gia hội nhập, một mặt giúp ASEAN nắm vững toàn bộ các tiến trình hợp tác trong khu vực, tránh rơi vào thế bị động, đối phó khi sự việc đã xảy ra, mặt khác, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các tiến trình do ASEAN tạo ra, có thể duy trì vai trò chủ đạo và vị trí trung tâm của ASEAN trong hợp tác khu vực.

3. Đối với các nước lớn trong khu vực

3.1 Sự phối hợp giữa các nước lớn

Mặc dù Liên minh Châu Âu (EU) thành lập tương đối muộn, nhưng trên thực tế, tiến trình hội nhập châu Âu đã có một giai đoạn chuẩn bị rất dài và đầy đủ. EU chính là ví dụ thành công nhất của hội nhập. Tiến trình hội nhập của EU phát triển rất hoàn thiện, xuất phát từ nhiều lý do, trong đó có một lý do quan trọng, đó là có sự phối hợp hài hòa giữa hai nước Đức và Pháp. Cơ chế phối hợp giữa hai nước lớn khu vực là Đức và Pháp không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hội nhập Châu Âu, mà còn tạo ra một cơ chế hợp tác cho hội nhập khu vực do Đức và Pháp đồng chủ đạo, không chỉ mang lại lợi ích cho hai nước, mà còn mang lại lợi ích chung cho cả khu vực.

Trung Quốc và Nhật Bản là hai nước lớn trong khu vực Đông Á, khu vực châu Á – Thái Bình Dương, thậm chí là cường quốc thế giới. Với tư cách là nền kinh tế lớn thứ nhất, nhì châu Á và lớn thứ nhì, ba thế giới, vị trí và sức ảnh hưởng của hai nước này ngày càng lớn, đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sự hợp tác và phát triển của khu vực, thậm chí là cả thế giới. Mối quan hệ Trung-Nhật từ lâu đã rất nhạy cảm, mặc dù có khi được cải thiện, nhưng vẫn chỉ là “xoa dịu tình hình” chứ khó mà thực sự “hòa hoãn”, vẫn luôn “nóng” trong kinh tế nhưng “lạnh”  về chính trị. Đặc biệt, từ năm 2012, khi vấn đề đảo Điếu Ngư (theo cách gọi của Trung Quốc) hay Senkaku (theo cách gọi của Nhật Bản) trở nên nóng hổi, mối quan hệ giữa Trung-Nhật lại càng đi vào bế tắc. Riêng hai nước Trung Nhật chiếm đến 70% dân số và 83% GDP của toàn khu vực Đông Á, theo kinh nghiệm của tiến trình hội nhập Châu Âu thì mối quan hệ hài hòa giữa Trung Quốc và Nhật Bản là một biến số vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển của hợp tác khu vực Đông Á cũng như có khả năng ảnh hưởng rất lớn đến vai trò chủ đạo của ASEAN trong khu vực.

Ngoài quan hệ song phương Trung – Nhật, sự phối hợp và hợp tác của ba nước lớn Đông Bắc Á Trung – Nhật – Hàn cũng vô cùng quan trọng. Mối quan hệ ba bên ở Đông Bắc Á này rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị, thịnh vượng kinh tế chung của cả khu vực Đông Á, vì vậy giữa ba nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng cần thiết phải thiết lập một cơ chế phối hợp chiến lược hài hòa. Học giả Trung Quốc Mang Jingshi cho rằng, hội nhập Đông Á rất khó thực hiện bởi chi phí chính trị cao, trong đó sự biến động về chi phí chính trị phụ thuộc phần lớn vào mối quan hệ Đông Bắc Á, tức Trung-Nhật-Hàn.[13] Vì vậy, sự phối hợp hài hòa giữa ba nước Trung, Nhật, Hàn là vô cùng quan trọng. Cơ chế gặp mặt thường niên lãnh đạo cấp cao ba nước Trung, Nhật, Hàn đã được khởi động từ năm 1999; đến năm 2003 đã ra được tuyên bố chung về việc thúc đẩy hợp tác ba bên, đề ra nguyên tắc và các lĩnh vực hợp tác sơ bộ; năm 2004 đã ký kết được chiến lược hợp tác hành động ba nước với quy hoạch cụ thể trong hợp tác nhằm thúc đẩy hợp tác toàn diện ba bên; năm 2007, ba nước ra Thông cáo chung Hội nghị thượng đỉnh Trung Nhật Hàn lần thứ VII, công bố ý chí chính trị và cam kết về sự tin tưởng lẫn nhau và tình hữu nghị giữa ba nước; năm 2008, Trung Nhật Hàn ký kết Tuyên bố chung về quan hệ đối tác ba bên; năm 2009 thông qua Thông cáo chung về 10 năm hợp tác; năm 2010 ban hành Triển vọng hợp tác Trung-Nhật-Hàn đến năm 2020 v.v… Việc cơ chế hóa hợp tác và thúc đẩy hội nhập khu vực Đông Á của ba nước thể hiện ý chí chính trị và mục tiêu, tầm nhìn hợp tác tương lai của ba nước đối với vấn đề khu vực.

Tuy nhiên, tại cuộc hội thảo quốc tế chuyên đề “Xây dựng khu mậu dịch tự do Trung-Nhật-Hàn: Vượt qua trở ngại, hướng đến tương lai”,[14] các học giả Trung Nhật Hàn bắt đầu cho rằng có nhiều lý do cản trở sự hình thành khu mậu dịch tự do Đông Bắc Á, chủ yếu xuất phát từ các vấn đề nông nghiệp, lịch sử, an ninh khu vực, vấn đề quyền chủ đạo cũng như một số nhân tố bên ngoài khu vực. [15] Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng ba nước lớn khu vực Đông Á vẫn cần phải xét đến đại cục, dù không thể thành lập khu mậu dịch tự do Trung-Nhật-Hàn thì cũng nên thiết lập một cơ chế phối hợp hợp lý để thúc đẩy tiến trình hợp tác Đông Á. Sự phối hợp giữa Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc không chỉ có ý nghĩa đối với sự phát triển và hợp tác của ba nước, mà còn giúp ASEAN phát huy vai trò chủ đạo trong hợp tác Đông Á: chỉ có triển khai hợp tác trong một môi trường khu vực hài hòa, thân thiện, hợp tác khu vực Đông Á mới đạt được thành công, ASEAN mới có thể duy trì và phát huy vai trò trung tâm của mình.

3.2 Sự ủng hộ của nước lớn đối với vai trò trung tâm của ASEAN

Việc các nước lớn khu vực Đông Á phối hợp hài hòa, tiếp tục hỗ trợ vị trí trung tâm của ASEAN có tác dụng rất lớn trong việc duy trì vai trò trung tâm của ASEAN. Cần thiết phải có một lực lượng thúc đẩy, lãnh đạo thì mới có thể tiến hành hội nhập khu vực. Việc xây dựng cộng đồng Đông Á cũng không phải là một ngoại lệ. ASEAN là đầu mối khởi xướng và tổ chức hợp tác khu vực Đông Á, luôn đóng vai trò trung tâm trong hợp tác khu vực. Thực tế hợp tác đã chứng minh rằng dưới sự chủ đạo của ASEAN, hợp tác Đông Á đã đạt được những tiến bộ tích cực. Do đó, sự hội nhập của khu vực Đông Á cần có một ASEAN mạnh mẽ, đoàn kết và có khả năng lãnh đạo.

Quyền chủ đạo trong hợp tác vốn dĩ luôn là tiêu điểm tranh chấp trong hợp tác khu vực. Trung Quốc và Nhật Bản đều là những quốc gia quan trọng  hàng đầu trong khu vực Đông Á nhưng lại không nắm vị trí lãnh đạo. Do sự phức tạp về lịch sử, văn hóa của khu vực cũng như tầm ảnh hưởng chiến lược của Hoa Kỳ đối với khu vực Đông Á và mối quan hệ mang tính chất đặc thù giữa Trung Quốc và Nhật Bản, hai nước Trung, Nhật nhìn chung không thể có khả năng đơn phương hoặc liên kết với nhau để lãnh đạo hợp tác khu vực Đông Á.

Trong tình hình khu vực phức tạp như Đông Á, các cường quốc khu vực đều không thể đơn phương hoặc hợp tác với nhau để phát huy vai trò lãnh đạo. Do đó, việc ASEAN phát huy vai trò chủ đạo trong hợp tác khu vực chính là sự chọn lựa hợp lý mang tính tất yếu của lịch sử, bởi quyền chủ đạo trong hợp tác khu vực hiện tại phù hợp với đặc điểm thời đại nhất.

Cấu trúc “ASEAN+” lấy ASEAN làm trung tâm không chỉ là cấu trúc “trưởng thành”, mà còn phù hợp với một kết cấu khu vực Đông Á đa nguyên đa dạng, giúp khu vực cùng có lợi trong điều kiện thích ứng lẫn nhau. Bất kỳ cường quốc nào trong khu vực nào muốn giữ vị trí chủ đạo hợp tác khu vực cũng đều gặp phải sự chống đối của của tập thể các nước còn lại, do đó trong khuôn khổ hợp tác “ASEAN+”, tức dưới sự lãnh đạo của ASEAN, các bên mới có thể kiểm soát, kiềm chế, đồng thời tìm cách thích nghi, học hỏi lẫn nhau nhằm tìm kiếm sự cân bằng về lợi ích trong trạng thái động, mới có thể khiến tất cả các quốc gia Đông Á cùng có lợi trên nền tảng hợp tác đa phương.

Mặc dù trong những năm gần đây ASEAN thu hút được ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhưng vị trí trung tâm của ASEAN không ngừng gặp phải thách thức, thậm chí còn xuất hiện mối nghi ngờ về khả năng lãnh đạo hợp tác khu vực của ASEAN. Tuy nhiên, mô hình hợp tác “ASEAN+” đi đôi với việc ASEAN đóng vai trò trung tâm trong hợp tác khu vực vẫn là mô hình hợp tác có hiệu quả nhất, là sự lựa chọn hợp lý và thiết thực nhất đối với hợp tác khu vực Đông Á. Phương thức hợp tác theo “Con đường ASEAN” có thể được nhân rộng từ khu vực Đông Nam Á đến toàn bộ Đông Á, thậm chí khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đã chứng minh tính hiệu quả của vai trò lãnh đạo hợp tác khu vực của tập thể các quốc gia vừa và nhỏ ở Đông Nam Á.

Hợp tác khu vực Đông Á đang ngày càng phức tạp và không ổn định, vào thời điểm quan trọng này, các nước khác, đặc biệt là các cường quốc khu vực nên nhận ra rằng, vai trò chủ đạo của ASEAN đã được chứng minh là mô hình chế độ khu vực khả thi duy nhất, do đó cần tiếp tục công nhận cũng như ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN. Các cường quốc trong khu vực, đặc biệt Trung Quốc và Nhật Bản, hiện tại khá nghi ngờ về vị trí trung tâm của ASEAN, [16] nhưng xuất phát từ mối quan hệ đặc thù giữa 2 nước thì trong thời gian tới rất khó có khả năng, giống Đức – Pháp cùng phối hợp để lãnh đạo cục diện trong tiến trình hợp tác Đông Á. Vì vậy, để duy trì và phát triển hợp tác khu vực một cách sâu rộng thì sự lựa chọn lý tính của các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước lớn như Trung, Nhật là nên tiếp tục công nhận, ủng hộ cũng như phối hợp với ASEAN trong việc phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong hợp tác khu vực.

Học giả Trung Quốc Qin Yaqing trong bài diễn thuyết ở diễn đàn hợp tác Đông Á năm 2007 nhấn mạnh rằng, “Các nước lớn phải thể hiện ý chí chính trị mạnh mẽ để hỗ trợ ASEAN tiếp tục đóng vai trò lãnh đạo trong hợp tác khu vực”. [17] Học giả Di Kun cho rằng, hỗ trợ quyền chủ đạo của ASEAN trong hợp tác Đông Á “đối với các bên mà nói là một hình thức có lợi nhất và vô hại nhất”, “là biện pháp rất thông minh và hiệu quả… có lợi cho khu vực ổn định và thịnh vượng, ba nước (Trung, Nhật, Hàn) cần hỗ trợ quyền chủ đạo của ASEAN”, [18] bởi “ASEAN sẽ không mang lại bất kỳ thách thức nào đối với lợi ích cốt lõi của các nước lớn”, bởi  “ASEAN đã hợp tác tốt đồng thời hài hòa lợi ích của các nước lớn.”[19] Sự ủng hộ của các nước lớn khu vực, đặc biệt là Trung, Nhật đối với vai trò chủ đạo của ASEAN một mặt giúp duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN trong hợp tác Đông Á, mặt khác có thể giúp hài hòa mối quan hệ giữa các nước, tạo nên môi trường khu vực an toàn, hài hòa, tin cậy lẫn nhau vốn rất cần thiết cho sự phát triển của toàn bộ khu vực nói chung và của từng nước Đông Á nói riêng.

Một Đông Á đang phải đối mặt với những vấn đề phức tạp, cùng với sự ra đời của TPP đã khiến ASEAN càng gặp thách thức hơn trong việc phát huy vai trò trung tâm trong hợp tác khu vực. Hội nhập khu vực Đông Á cần có một ASEAN vững mạnh và có kỹ năng lãnh đạo. Duy trì và cũng cố vai trò chủ đạo của ASEAN trong hợp tác khu vực Đông Á không chỉ là yêu cầu của ASEAN,  mà còn là nhu cầu của các nước Đông Á.

Ở thời điểm quan trọng này, ASEAN cần hiểu rõ rằng muốn duy trì và cũng cố vai trò chủ đạo và vị trí trung tâm của ASEAN thì không chỉ dựa vào sự cân bằng ngoại giao với các nước lớn, mà quan trọng hơn là phải chấn chỉnh lại nội bộ, nâng cao khả năng lãnh đạo tập thể, tập trung vào việc tăng cường hợp tác “ASEAN+3” và lấy đoàn kết làm sức mạnh, thông qua hình thức đối thoại “ASEAN+” triển khai hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong TPP và RCEP.

Ngoài ra, các nước Đông Á cũng nên nhận thức rằng, lịch sử hợp tác khu vực đã chứng minh ASEAN đã có kinh nghiệm cũng như có sức mạnh lãnh đạo, và một mô hình hợp tác khu vực do ASEAN lãnh đạo là mô hình hợp khả thi thậm chí là duy nhất trong bối cảnh khu vực phức tạp, đầy biến động, vì vậy cần tiếp tục công nhận, ủng hộ, hỗ trợ vai trò chủ đạo của ASEAN trong khu vực. Đồng thời, giữa các nước lớn khu vực cũng nên thiết lập cơ chế phối hợp chiến lược, nỗ lực hơn nữa nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho việc phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong hợp tác khu vực.

Kết luận

Trong tình hình khu vực không có cơ chế phối hợp giữa các nước lớn cũng như không gắn chung với một bản sắc lịch sử khu vực, các nước ASEAN vốn có lợi thế về địa chính trị, xuất phát từ nhu cầu phát triển của mình, từ nửa thế kỷ trước đã bắt đầu hợp tác và tiến đến hội nhập nhằm làm chủ vận mệnh của mình, bảo vệ lợi ích cốt lõi quốc gia, tiếp đó là phát huy vai trò lớn hơn, lãnh đạo hợp tác của cả khu vực.

ASEAN không chỉ là đầu mối khởi xướng và tổ chức hợp tác khu vực Đông Á mà còn làm chủ quy trình hợp tác khu vực, nội dung hợp tác cũng như quy tắc hợp tác. ASEAN phát huy vai trò chủ đạo trong hợp tác khu vực một mặt xuất phát từ khả năng của chính ASEAN, một mặt nhờ nhu cầu tất yếu của lịch sử. Dưới sự lãnh đạo và thúc đẩy tích cực của ASEAN, hợp tác khu vực Đông Á liên tục phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, gặt hái được nhiều thành tựu to lớn, giúp các nước Đông Á và cả khu vực không ngừng tăng cường sức mạnh tổng thể, nâng cao vị thế trên trường quốc tế.

Trong bối cảnh phức tạp cộng thêm khả năng lãnh đạo suy giảm cũng như nảy sinh vấn đề trong hợp tác nội bộ các nước… vị trí trung tâm của ASEAN trong hợp tác Đông Á đã bị suy yếu đáng kể. Trong những năm gần đây, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) do Hoa Kỳ lãnh đạo phát triển nhanh chóng nổi lên như là một biến số lớn đối với vai trò trung tâm của ASEAN trong hợp tác Đông Á. Hợp tác TPP, ASEAN tuy có cơ hội phát huy tác dụng trên vũ đài quốc tế lớn hơn, nhưng cơ hội này dường như rất nhỏ, ngược lại, có nhiều khả năng TPP sẽ làm chậm lại, phân hóa thậm chí tan rã tiến trình hợp tác Đông Á, ảnh hưởng đến phương hướng, động lực và kết quả hội nhập khu vực, tạo ra những thách thức về  thể chế, cơ cấu và cơ chế hợp tác Đông Á, ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò lãnh đạo và vị trí trung tâm của ASEAN trong hợp tác khu vực.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá thất vọng về tương lai của hợp tác khu vực. Tuy TPP phát triển nhanh mạnh, nhưng vẫn còn phải vượt qua cả chặng đường dài nữa mới đi đến thành công, trong đó ít nhất phải trải qua ba cửa ải: đàm phán, quốc hội và mở rộng hợp tác. [20]Hơn nữa, APEC là “một ví dụ điển hình cho tính không hiệu quả của chủ nghĩa đa phương”.[21] Trải qua hơn 20 năm, APEC vẫn chưa phát huy được tác dụng to lớn như nó được kỳ vọng, vậy thì một TPP mới ra đời liệu có thể làm nên phép màu cho FTAAP? Khả năng là có nhưng vẫn đang còn bỏ lửng, ít nhất vẫn phải mất một thời gian dài và đầu tư lớn. Đồng thời với việc các nước lớn trong khu vực cần có sự phối hợp và tiếp tục ủng hộ ASEAN, ASEAN có thể và nên tận dụng thời gian này để chấn hưng nội bộ, nỗ lực nhiều hơn để đạt được những thành tựu to lớn hơn, phát huy vai trò lớn hơn nhằm củng cố và nâng cao vị trí của mình, dẫn dắt hợp tác Đông Á tiếp tục tiến về phía trước, tăng cường sức mạnh kinh tế, tăng cường sự đoàn kết khu vực, bảo vệ an ninh khu vực, hòa bình và ổn định, cùng xây dựng một Đông Á phồn vinh, hài hòa, nâng cao vị thế quốc tế của các nước và cả khu vực.

Trần Thị Bảo Hương, cán bộ Sở Ngoại vụ tỉnh Quảng Trị, hiện là nghiên cứu sinh tiến sĩ chuyên ngành Ngoại giao tại Học viện Quan hệ Quốc tế, Đại học Nhân Dân Trung Quốc. Bài viết được đăng lần đầu trên Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Số 4(99)/2014.

Tài liệu tham khảo

Tài liệu tiếng Việt:

  • Đỗ Hoài Nam, Võ Đại Lược,Hướng tới cộng đồng kinh tế Đông Á,Hà Nội: NXB Thế Giới, 2004.
  • Đỗ Thanh Bình, Văn Ngọc Thành chủ biên, Quan hệ quốc tế thời hiện đại: Những vấn đề mới đặt ra, NXB Chính trị Quốc gia, 6/2012, trang 146-162.
  • Nguyễn Hoàng Giáp chủ biên, Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia, 2012.
  • Nguyễn Thu Mỹ,Hợp tác ASEAN+3: Quá trình phát triển, thành tựu và triển vọng, Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia, 2008.
  • Nguyễn Thu Mỹ,Một số vấn đề cơ bản về hợp tác ASEAN+3,Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 2008.
  • Nguyễn Trần Quế,35 năm ASEAN hợp tác và phát triển,Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 2003.
  • Phạm Đức Thành chủ biên, Liên kết ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ XXI, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 2006.
  • Trần Khánh chủ biên, Những vấn đề chính trị kinh tế Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 2006.
  • Lê Đình Tĩnh, “Cấu trúc khu vực”, Báo Thế giới và Việt Nam, Số 263, 16/12/2011.
  • Lê Uyển Chi, “Hợp tác khu vực”, Báo Thế giới và Việt Nam, Số 217-219, 14/02/2011.
  • Trần Công, “Xuyên Thái Bình Dương”, Báo Thế Giới và Việt Nam, Số 264, 26/12/2011.
  • Trung Nguyên, “Trở lại châu Á”, Báo Thế giới và Việt Nam, Số 262, 13/12/2011.
  • Vũ Lê Thái Hoàng, “Quan hệ Mỹ – Trung và trật tự khu vực Châu Á – Thái Bình Dương”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Số 1(80), 3/2010.

Tài liệu tiếng Anh:

  • Alice D Ba, “Regionalism’s Multiple Negotiations: ASEAN in East Asia”, Cambridge Review of International Affairs, Volume 22, Issue 3, 2009, p.p. 345-367.
  • Amy Searight, “The United States and Asian Regionalism: The Politics of Reactive Leadership”, The Political Economy of the Asia Pacific, 2011.
  • Ann Capling, “Multilateralising Regionalism: What Role for the Trans-Pacific Partnership Agreement?, Pacific Review, Dec 2011, Vol. 24 Issue 5.
  • Cheunboran Chanborey, “East Asian Community Building: Challenges and Future Prospect”, CICP Working Paper, Jan 2011.
  • M. Jones, M. L. R. Smith, “Making Process, Not Progress: ASEAN and the Evolving East Asian Regional Order”, International Security, (2007) 32 (1): p.p. 148-184.
  • Egberink, Fenna and Frans-Paul van der Putten, “ASEAN and Strategic Rivalry among the Great Powers in Asia”, Journal of Current Southeast Asian Affairs, 29, 3, p.p. 131-141.
  • Hillary Rodham Clinton, “America’s Pacific Century”, Foreign Policy, Nov 2011.
  • Julio Santiago Amador, “ASEAN in the Asia Pacific: Central or Peripheral?”, Asian Politics & Policy,Volume 2, Issue 4, Oct / Dec 2010, p.p. 601-616.
  • Ma Jingjing, “TPP Reflects the United States Asia Complex”, International Understanding, No. 1, 2011.
  • Tim Devaney, “Obama Seeks Authority to Make Pacific Trading Pacts”, Washington Times, The (DC), 28 Oct 2011.

Tài liệu tiếng Trung:

  • 陈峰君、祁建华主编:《新地区主义与东亚合作》,北京:中国经济出版社,2007年6月第1版。
  • 陈奕平、秦珊、吴金平主编:《美国与东亚合作 》,北京:世界知识出版社,2006年5月第1版。
  • 黄大慧主编:《构建和谐东亚:中日韩关系与东亚未来 》,北京:社会科学文献出版社,2010年4月第1版。
  • 黄大慧主编:《变化中的东亚与美国:东亚的崛起及其秩序建构》,北京:社会科学文献出版社,2010年2月第1版。
  • 李扬、黄宁:“东盟四国加入TPP的动因及中国的策略选择”,《当代亚太》,2013年第1期。
  • 刘晨阳、于晓燕主编:《亚太经济一体化问题研究》,天津:南开大学出版社,2009年4月第1版。
  • 梅平主编:《东亚合作还是亚太合作:亚太地区合作的机制与方向研究》,北京:世界知识出版社,2010年8月第1版。
  • 彭述华著:《东亚经济一体化主导问题研究》,北京:人民出版社,2011年3月第1版。
  • 魏玲主编:《东亚地区合作:2011》,北京:经济科学出版社,2012年5月第1版。
  • 杜兰: “美国力推跨太平洋伙伴关系战略论析”,《国际问题研究》,2011年第1期。
  • 关权:“东亚经济一体化和TPP——中日之间的博弈”,《东北亚论坛》,2012年第2期。
  • 李文韬:“东盟参与‘TPP轨道’合作面临的机遇、挑战及战略选择”,《亚太经济》,2012年第4期。
  • 韦宗友:“美国战略东移及其对东亚秩序的影响”,《国际观察》,2012年第6期。

——————

[1]Tham khảo thêm tại: Trần Thị Bảo Hương, “Bàn về tác động của TPP đối với vai trò chủ đạo của ASEAN trong tiến trình hợp tác khu vực Đông Á”, Nghiên cứu Quốc tế, Số 1(96)/2014.

[2]Điều 41, “Hiến chương ASEAN”, http://www.asean.org/archive/publications/ASEAN-Charter.pdf.

[3]Những biện pháp ngoại giao bên ngoài kênh chính thức của chính phủ.

[4] Phan Anh, “ASEAN không ra được thông cáo chung do bất đồng về tranh chấp trên biển Đông”, 13/7/2012, Nguồn: Báo Dân Trí (Báo điện tử của Hội Khuyến học Việt Nam), http://dantri.com.vn/su-kien/asean-khong-ra-duoc-thong-cao-chung-do-bat-dong-ve-tranh-chap-bien-dong-618656.htm, đăng nhập: 15:20 22/11/2013.

[5](Tiếng  Trung) ChenFengjun, QiJianhua, Chủ nghĩa khu vực mới và hợp tác Đông Á, Beijing: NXB Kinh tế Trung Quốc, 6/2007, trang 5-8.

[6]H.Anh, “ASEAN có nguy cơ bị thâu tóm”, Nguồn: Báo Đất Việt (thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam),18/11/2011, http://www.baodatviet.vn/the-gioi/asean-co-nguy-co-bi-thau-tom-asean-co-nguy-co-bi-thau-tom-2245962/, đăng nhập: 8:50 23/11/2013.

[7]Walter Mattli, The Logic of Regional Integration: Europe and Beyond, Cambridge University Press, 5/1999.

[8](Tiếng Trung) Cao Yunhua, ASEAN: Cấu trúc, vận hành và quan hệ đối ngoại, Beijing: NXB Kinh tế, 01/2011, trang 23-24.

[9]ASEAN Secretariat, Chairman’s Statements of the ASEAN Plus Three Summits.

[10](Tiếng Trung) Wang Yu, 40 năm ASEAN: Cơ chế hợp tác kinh tế khu vực năng động (1967-2007),Beijing: NXB Văn hiến Khoa học Xã hội, 12/2011, trang 166.

[11](Tiếng Trung) Zhang Wenling, Shen Minghui, Mô hình hợp tác Đông Á, Châu Á – Thái Bình  Dương và trò chơi lợi ích, Beijing: NXB Quản lý Kinh tế, 8/2010, trang 175.

[12](Tiếng Trung) Lin Weiqing, Liu Jiguo, Yang Gangyong, Wang Zhizhan, ASEAN tiến tới hội nhập, Shenzhen: NXB Haitian, 5/2010, trang 171.

[13]Nt.

[14] Do Viện Châu Á – Thái Bình Dương Trung Quốc tổ chức vào tháng 10/2010.

[15](Tiếng Trung) Ma Junwei, “Tóm tắt Hội thảo quốc tế ‘Xây dựng khu mậu dịch tự do Trung-Nhật-Hàn: Vượt qua trở ngại, hướng đến tương lai’”, http://www.docin.com/p-29252680 2.html#documentinfo

[16]Trần Khánh chủ biên, Những vấn đ chính trị kinh tế Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ XXI, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 2006, trang 231-232.

[17](Tiếng Trung) Qin Yaqing, “Chủ nghĩa khu vực Đông Á: Tính khả thi và hình thức”, đăng tại Huang Dahui chủ biên, Đông Á trong biến động và Hoa Kỳ:  Sự trỗi dậy của Đông Á và kết cấu trật tự khu vực, Beijing: NXB Văn hiến Khoa học Xã hội, 2/2010, trang 18.

[18](Tiếng Trung) Di Kun: “Trung Nhật Hàn và Cộng đồng Đông Á: Làm thế nào để chung sống với ASEAN”, đăng tại Huang Dahui chủ biên, Xây dựng Đông Á hài hòa: Quan hệ Trung Nhật Hàn và tương lai Đông Á, Beijing: NXB Văn hiễn Khoa học Xã hội, 4/2010, trang 84-93.

[19]Phát biểu của Nguyên Tổng thư ký ASEAN Surin Pitsuwan tại Hội nghị truyền thông quốc tế Đài Loan, tháng 4/2010.

[20](Tiếng Trung) Wu Zhenglong, “TPP của Mỹ có thể đi được bao xa?”, đăng tại Mei Ping chủ biên, Hợp tác Đông Á hay hợp tác Thái Bình Dương: Nghiên cứu về cơ chế và phương hướng hợp tác khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Beijing: NXB Tri thức Thế giới, 8/2013, trang 39-43.

[21](Tiếng Trung) Pang Zhongying, “Tranh luận về Châu Á Thái Bình Dương và Đông Á: Có ý nghĩa hay vô vị?”, đăng tại Mei Ping chủ biên, Hợp tác Đông Á hay hợp tác Thái Bình Dương: Nghiên cứu về cơ chế và phương hướng hợp tác khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Beijing: NXB Tri thức Thế giới, 8/2013, trang 167-172.

[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]