Nguồn: David Remnick, “An American Tragedy,” The New Yorker, November 9, 2016.
Biên dịch: Nguyễn Huy Hoàng
Việc Donald Trump đắc cử tổng thống không khác gì một bi kịch đối với nền cộng hòa Mỹ, một bi kịch đối với hiến pháp Mỹ, và một chiến thắng đối với các lực lượng, trong nước và ngoài nước, của chủ nghĩa bản địa bài ngoại, chủ nghĩa chuyên chế, sự kỳ thị nữ giới, và phân biệt chủng tộc. Chiến thắng chấn động của Trump, việc ông leo lên ghế tổng thống, là một sự kiện đáng thất vọng trong lịch sử nước Mỹ và nền dân chủ tự do. Ngày 20 tháng 1 năm 2017, chúng ta sẽ chia tay vị tổng thống người Mỹ gốc Phi đầu tiên – một con người của liêm chính, phẩm giá và tinh thần hào sảng – và chứng kiến lễ nhậm chức của một con người giả dối đã không làm gì nhiều để cự tuyệt sự ủng hộ của các lực lượng bài ngoại và thượng tôn da trắng. Không thể nào phản ứng lại thời khắc này với bất cứ điều gì khác ngoài sự ghê tởm và lo lắng sâu sắc.
Có những bất hạnh chắc chắn đang đến: một Tối cao Pháp viện ngày càng phản động; một Quốc hội cánh hữu được củng cố; một tổng thống có thái độ khinh thị đối với phụ nữ và các nhóm thiểu số, các quyền tự do dân sự và thực tế khoa học, chưa nói gì đến phép lịch sự đơn thuần, đã được thể hiện nhiều lần. Trump là sự thô tục vô biên, một lãnh đạo nhà nước thiếu kiến thức, người sẽ không chỉ làm các thị trường tụt dốc mà còn gây ra nỗi sợ cho những người dễ bị tổn thương, yếu thế, và, trên tất cả, nhiều biến thể “người khác” mà ông đã xúc phạm nặng nề. Người Mỹ gốc Phi khác. Người Mỹ gốc Tây Ban Nha khác. Người phụ nữ khác. Người Do thái và Hồi giáo khác. Cách nhìn hy vọng nhất – và đó là nói quá – về sự kiện đau thương này là cuộc bầu cử này và những năm tới sẽ là một bài kiểm tra sức mạnh, hoặc tính mong manh, của những thể chế Mỹ. Nó sẽ là một bài thử thách sự nghiêm túc và quyết tâm của chúng ta.
Đầu ngày bầu cử, các cuộc thăm dò đã cho thấy có lý do để lo ngại, nhưng cũng đem đến những tin tức đủ hứa hẹn cho các đảng viên Dân chủ ở những tiểu bang như Pennsylvania, Michigan, North Carolina, và thậm chí Florida đến mức không có lý do gì để không nghĩ đến chuyện ăn mừng việc đạt được các mục tiêu của Hội nghị Seneca Falls,[1] việc người phụ nữ đầu tiên đắc cử vào Nhà Trắng. Chiến thắng tiềm năng ở những tiểu bang như Georgia đã biến mất, chỉ hơn một tuần trước đấy, với lá thư tắc trách và đầy tổn hại gửi Quốc hội của giám đốc F.B.I. về việc mở lại cuộc điều tra của ông và sự xuất hiện trở lại của những từ ngữ thịnh hành đầy tổn hại như “e-mail,” “Anthony Weiner,” và “cô bé mười lăm tuổi.” Nhưng lợi thế vẫn nghiêng về phía Hillary Clinton.
Ngay từ đầu, Trump đã có vẻ giống như một bức biếm họa méo mó của mọi phản ánh mục nát của cánh hữu cực đoan. Việc ông đã thắng thế, việc ông đã chiến thắng cuộc bầu cử này, là một đòn choáng váng vào tinh thần; đó là một sự kiện rất có thể sẽ đưa đất nước vào một giai đoạn bất ổn kinh tế, chính trị, và xã hội mà chúng ta chưa thể hình dung ra. Việc đa số tương đối cử tri quyết định sống trong thế giới phù phiếm, hận thù, kiêu ngạo, giả dối, và liều lĩnh của Trump, sự quay lưng của ông đối với các chuẩn mực dân chủ, là một thực tế chắc chắn sẽ dẫn đến sự suy tàn và chịu đựng của đất nước dưới nhiều hình thức.
Trong những ngày tới, các nhà bình luận sẽ cố gắng bình thường hóa sự kiện này. Họ sẽ cố gắng xoa dịu độc giả và khán giả bằng những suy nghĩ về “sự khôn ngoan bẩm sinh” và “sự đứng đắn về bản chất” của người Mỹ. Họ sẽ đánh giá thấp tính độc hại của chủ nghĩa dân tộc đang hiện diện, quyết định tàn nhẫn là bầu lên một người đi lại bằng máy bay mạ vàng nhưng giành ghế tổng thống bằng luận điệu dân túy kiểu máu và đất. George Orwell, người can đảm nhất trong các nhà bình luận, đã đúng khi chỉ ra rằng dư luận vốn không khôn ngoan không khác gì con người vốn không tốt đẹp. Người ta có thể hành xử một cách ngu ngốc, bất cẩn, và tự hủy hoại trong số đông cũng như khi đứng một mình. Đôi khi tất cả những gì họ cần là một nhà lãnh đạo xảo quyệt, một kẻ mị dân đọc được những cơn sóng oán giận và cưỡi chúng đến một chiến thắng đa số. “Vấn đề là sự tự do tương đối mà chúng ta hưởng lại phụ thuộc vào dư luận,” Orwell viết trong tiểu luận “Freedom of the Park.” “Luật pháp không phải là sự bảo hộ. Chính quyền làm ra luật pháp, nhưng chúng có được thực thi hay không, và cảnh sát hành xử thế nào, thì phụ thuộc vào tâm tính chung của đất nước. Nếu nhiều người quan tâm đến tự do ngôn luận thì sẽ có tự do ngôn luận, cho dù luật pháp có cấm đoán; nếu dư luận trì trệ, những nhóm thiểu số không được yêu thích sẽ bị bức hại, cho dù luật pháp có tồn tại để bảo vệ họ.”
Trump trong chiến dịch tranh cử của mình đã cảm nhận được cảm giác bị tước đoạt và lo âu của hàng triệu cử tri – đa số là cử tri da trắng. Và nhiều trong số họ – không phải tất cả, nhưng nhiều người – đã đi theo Trump bởi họ thấy kẻ trình diễn bóng bẩy này, từng là một người tương đối vô danh về chính trị, một anh hề ngoài lề tự quảng bá bản thân trong bối cảnh New York những năm 1980 và 1990, đã sẵn lòng đón nhận những oán hận của họ, cơn giận của họ, và cảm nhận của họ rằng một thế giới đang âm mưu chống lại lợi ích của họ. Việc ông là một tỷ phú ít được tôn trọng đã không ngăn cản họ, không khác gì nhiều việc cử tri ở Anh ủng hộ Brexit đã không bị làm nản lòng bởi chủ nghĩa hoài nghi của Boris Johnson và rất nhiều người khác. Cử tri đảng Dân chủ có lẽ đã an tâm với thực tế là đất nước đã phần nào phục hồi đáng kể, dù không đồng đều, sau Đại Suy thoái – tỷ lệ thất nghiệp giảm còn 4,9% – nhưng nó đã khiến họ, nó đã khiến chúng ta, đánh giá quá thấp hiện thực. Cử tri đảng Dân chủ cũng đã tin rằng, với việc bầu lên một tổng thống người Mỹ gốc Phi và sự trỗi dậy của bình đẳng hôn nhân và những dấu ấn tương tự khác, các cuộc chiến tranh văn hóa đã đi đến hồi kết. Trump bắt đầu chiến dịch tranh cử với tuyên bố người nhập cư Mexico là “những kẻ hiếp dâm”; ông kết thúc nó bằng một quảng cáo bài Do thái gợi lên cuốn The Protocols of the Elders of Zion (một cuốn sách nói về âm mưu thống trị thế giới của người Do thái – NBT); hành vi của chính ông đã nhạo báng phẩm giá và thân thể của phụ nữ. Và, khi bị chỉ trích vì bất kỳ điều gì, ông gạt bay nó, coi những gì mình nói là “đúng đắn về chính trị.” Chắc chắn một nhân vật tàn nhẫn và suy đồi như vậy có thể thành công với một số cử tri, nhưng làm sao ông có thể thắng? Chắc chắc, Breitbart News, một trang tin đầy âm mưu hiểm độc, không thể trở thành một nguồn tin tức và ý kiến chủ lưu cho hàng triệu người. Vậy mà Trump, vốn rất có thể chỉ khởi đầu chiến dịch của mình như một nỗ lực tạo dựng thương hiệu, sớm muộn đã nhận ra ông có thể đại diện cho và thao túng được những lực lượng đen tối ấy. Việc những đảng viên Cộng hòa “truyền thống,” từ George H. W. Bush đến Mitt Romney, tuyên bố không ủng hộ Trump có vẻ chỉ làm sâu sắc thêm sự ủng hộ tinh thần dành cho ông.
Các nhà bình luận, trong nỗ lực bình thường hóa bi kịch này, cũng sẽ tìm cách giảm nhẹ hành động vụng về và phá hoại của F.B.I., sự can thiệp thâm hiểm của tình báo Nga, thẻ thông hành – những giờ đưa tin liên tục, không qua biên tập về những buổi vận động cử tri của ông – mà các đài truyền hình cáp đem lại cho Trump, nhất là trong những tháng đầu chiến dịch của ông. Chúng ta sẽ được yêu cầu tin tưởng vào sự ổn định của các thể chế Mỹ, vào xu thế là ngay cả những chính trị gia cực đoan nhất cũng sẽ tiết chế bản thân khi nhậm chức. Các nhà tự do chủ nghĩa sẽ bị cho là tự mãn, xa rời khổ cực, cứ như thể nhiều đảng viên Dân chủ không biết thế nào là nghèo đói, vật lộn, và bất hạnh. Không có lý do gì để tin vào lời phỉnh phờ này. Không có lý do gì để tin rằng Trump và phe nhóm cộng sự của ông – Chris Christie, Rudolph Giuliani, Mike Pence, và, phải, cả Paul Ryan – sẽ muốn quản trị với tư cách đảng viên Cộng hòa trong những ranh giới lễ nghi truyền thống. Trump không được bầu lên trên nền tảng của sự đứng đắn, công bằng, ôn hòa, thỏa hiệp, và pháp quyền; mà được bầu lên chủ yếu trên nền tảng của sự oán hận. Chủ nghĩa phát xít không phải – nó không thể; chúng ta không thể cho phép nó – là tương lai của chúng ta, nhưng đây chắc chắn là cách chủ nghĩa phát xít có thể khởi đầu.
Hilary Clinton là một ứng cử viên thiếu sót, nhưng là một nhà lãnh đạo kiên cường, thông minh, và có năng lực, một người không bao giờ có thể vượt qua hình ảnh của mình trong hàng triệu cử tri như một người không đáng tin và có đặc quyền. Một phần của điều này là kết quả của bản năng gây nghi ngờ cố hữu của bà, phát triển trong nhiều năm sau hết vụ “bê bối” giả này đến vụ khác. Vậy mà, bằng cách nào đó, bất luận bà phụng sự công chúng nghiêm túc lâu và tận tâm thế nào, bà vẫn không đáng tin bằng Trump, một người giả dối lừa gạt cả những khách hàng, các nhà đầu tư, và các nhà thầu của mình; một con người sáo rỗng với vô số phát ngôn và hành vi phản ánh một con người mang những phẩm chất thấp kém – tham lam, gian dối, và cuồng tín. Mức độ ích kỷ của ông hiếm khi được thể hiện mà không quan sát được.
Trong tám năm qua, đất nước đã sống với Barack Obama trên cương vị tổng thống. Chúng ta quá thường xuyên cố xem nhẹ sự phân biệt chủng tộc và oán hận đã sôi sục dưới bề mặt không gian mạng. Nhưng môi trường thông tin đó đã tan vỡ. Trên Facebook, những bài viết trong nền báo chí truyền thống, dựa trên thực tế, trông giống hệt như bài viết của truyền thông phe alt-right đầy thuyết âm mưu. Những người phát ngôn cho những điều không thể nói ra nay tiếp cận được một lượng thính giả lớn. Đây là cái vạc dầu, với rất nhiều từ ngữ kỳ thị phụ nữ, đã giúp hạ thấp và tiêu diệt Clinton. Báo chí alt-right là nơi cung cấp những lời dối trá, tuyên truyền, và thuyết âm mưu không ngừng mà Trump dùng làm nhiên liệu cho chiến dịch của mình. Steve Bannon, một nhân vật chủ chốt của Breibart, là tuyên truyền viên và nhà quản lý chiến dịch của ông.
Đó tất cả là một bức tranh ảm đạm. Cuối đêm qua, khi có kết quả từ những bang cuối cùng, một người bạn gọi cho tôi đầy buồn bã, đầy lo lắng về xung đột, về chiến tranh. Sao không rời bỏ đất nước này? Nhưng tuyệt vọng không phải là câu trả lời. Chiến đấu chống chủ nghĩa chuyên chế, vạch trần những lời dối trá, đấu tranh một cách tự hào và quyết liệt nhân danh những lý tưởng Mỹ – đó là những gì còn lại để làm. Đó là tất cả những gì cần làm.
David Remnick là tổng biên tập tạp chí The New Yorker từ năm 1998.
Một phiên bản của bài dịch đã được đăng trên trang của dịch giả.
——————–
[1] Hội nghị Seneca Falls là hội nghị đầu tiên về quyền của phụ nữ, được tổ chức tại Seneca Falls, New York, từ ngày 19 đến 20/7/1848 (NBT).
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]