Nguồn: Antony Blinken, “What Is America Without Influence? Trump Will Find Out”, The New York Times, 13/12/2016.
Biên dịch: Lê Hoa | Hiệu đính: Đỗ Thiện
Tháng 2 năm 1945, vào giai đoạn cuối Thế chiến II, Franklin D. Roosevelt, Joseph Stalin và Winston Churchill đã họp tại Yalta, một thị trấn nghỉ mát của người Nga ở Crimea, để bàn cụ thể về tương lai của cuộc chiến và nền hòa bình sau đó. Các nhà lãnh đạo đồng ý với Roosevelt về một trật tự thời hậu chiến được thống trị bởi “Bốn trụ cột”– Mỹ, Anh, Nga và Trung Quốc.
Roosevelt chắc chắn rằng mình có thể thuyết phục được Stalin thực hiện cam kết Yalta về duy trì an ninh khu vực và một châu Âu thống nhất. Stalin lại có một tầm nhìn hoàn toàn khác: thế giới được phân chia theo phạm vi ảnh hưởng của các nước mạnh nhất. Dưới sự thống trị của Liên Xô, bóng tối đã nhấn chìm Đông Âu trong suốt 45 năm.
Tổng thống Harry Truman phải gánh trách nhiệm đối phó với chủ nghĩa bành trướng Liên Xô. Ông đã xây dựng các liên minh thời bình đầu tiên của Mỹ, bắt đầu ở Tây Âu, sau đó ở châu Á. Mỹ đã dẫn đầu trong việc thiết lập các chuẩn mực, quy tắc và các thể chế đại diện cho trật tự quốc tế tự do, bao gồm Liên Hợp Quốc, các thể chế tài chính quốc tế và Kế hoạch Marshall.
Trật tự tự do mà Mỹ dẫn đầu ủng hộ một thế giới mở, kết nối bằng dòng chảy tự do của con người, hàng hóa, ý tưởng và nguồn vốn; một thế giới được căn cứ vào các nguyên tắc về quyền tự quyết, chủ quyền của các quốc gia và các quyền cơ bản cho công dân của họ. Tư tưởng này thường không thành công ở Mỹ Latinh và Đông Nam Á. Tuy nhiên, trật tự tự do mà Mỹ thiết lập đã tạo nên sự thịnh vượng và duy trì hòa bình giữa các cường quốc trong nhiều thập kỉ bất chấp những căng thẳng dữ dội của Chiến tranh Lạnh.
Trật tự thời hậu chiến mà Mỹ xây dựng hiện đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng, bao gồm cả thách thức từ các đối thủ trước đây. Tổng thống Nga, Vladimir Putin, không phải là Stalin và Nga cũng không còn là Liên Xô. Tuy nhiên ông Putin luôn tìm cách lấy lại sức ảnh hưởng của Nga, đồng thời không tuân theo trật tự quốc tế tự do dù nó thịnh hành trong suốt giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Trung Quốc vẫn tập trung vào sự ổn định bên trong quốc gia, nhưng trong bản đề xuất “Mô hình mới về quan hệ giữa các cường quốc”, nước này kiến nghị với Mỹ rằng Mỹ nên tập trung vào phần phía Đông Thái Bình Dương và nên để cho Trung Quốc đóng vai trò nổi trội trong nửa phía Tây của đại dương này.
Các đồng minh của Mỹ ở châu Âu và châu Á đang dồn sự chú ý đến việc liệu chính quyền Donald Trump sẽ bác bỏ hay ủng hộ sự tái xuất hiện của các khu vực ảnh hưởng. Họ lo lắng vì trong chiến dịch tranh cử của mình, ông Trump dường như đã ủng hộ sự thống trị của các lãnh đạo độc tài và mong muốn hợp tác với Putin. Ông Trump hầu như không lo ngại về việc tin tặc Nga tấn công cuộc bầu cử hay việc Nga tấn công Ukraine. Trump cho rằng NATO đã “lỗi thời” và Mỹ nên từ chối nhiệm vụ “bảo vệ thế giới”. Ông Trump ví Nhật Bản và Hàn Quốc (là những đồng minh lâu năm của Mỹ – NBT) như những quốc gia dựa dẫm ngồi không hưởng lợi và cho rằng những nước này nên tự chịu gánh nặng kinh phí về quốc phòng và răn đe hạt nhân.
Trump đã hứa sẽ rút khỏi hiệp định thương mại Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), nhường cho Trung Quốc quyền lãnh đạo kinh tế và ảnh hưởng chiến lược ở châu Á. Đối với nhiều người châu Âu và châu Á, những lời tuyên bố này sẽ khiến thế giới trở thành nơi bị thống trị bởi Nga và Trung Quốc cả về kinh tế lẫn chính trị, trong khi Mỹ lui về tổ kén của mình.
Mỹ không nên nhìn Nga và Trung Quốc qua lăng kính trò chơi có tổng bằng không (nghĩa là lợi ích Trung Quốc hay Nga đạt được sẽ bằng với thiệt hại của Mỹ phải gánh chịu – NBT). Điều này có thể thấy thông qua việc chính quyền Obama đã khôn khéo mở rộng các lĩnh vực hợp tác với Bắc Kinh, từ Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu, việc đối phó với dịch bệnh Ebola, thỏa thuận hạt nhân của Iran và vấn đề Triều Tiên tới các dự án chung ở các nước đang phát triển. Mỹ cũng đã đàm phán Hiệp ước START mới về cắt giảm vũ khí hạt nhân và ủng hộ việc Nga gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Tuy nhiên, khi Nga hoặc Trung Quốc thách thức các nguyên tắc của trật tự quốc tế tự do, Mỹ cần phải cứng rắn với họ. Ở Ukraine, ông Putin đã tìm cách thay đổi biên giới của nước láng giềng bằng vũ lực, đồng thời từ chối quyền quyết định của công dân (Ukraine – NBT) trong việc lựa chọn các quốc gia, các tổ chức hoặc liên minh mà họ muốn liên kết. Đó là lý do vì sao sự hỗ trợ của Mỹ dành cho Ukraine lại quan trọng.
Tương tự như vậy, Mỹ cần cương quyết bảo vệ luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Tại đây, việc Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với các vùng lãnh hải rộng lớn cùng với việc xây dựng các căn quân sự trên các đảo nhân tạo có nguy cơ phá hoại tự do hàng hải và tự do thương mại, gây ảnh hưởng đến sự thịnh vượng của Mỹ, đến hòa bình ổn định trong khu vực và quyền lợi của các đồng minh mà Mỹ đã hứa che chở.
Một thế giới bị phân chia vùng ảnh hưởng sẽ không thể có hòa bình, ổn định và Mỹ cũng sẽ khó tránh khỏi các tình huống xung đột. Những kẻ bá chủ ít khi bằng lòng với những gì họ đã có. Mong muốn mở rộng các vùng ảnh hưởng cũng như sự nổi loạn và đàn áp nổi loạn trong các vùng đó sẽ dẫn đến xung đột buộc Mỹ phải vào cuộc. Mỹ sẽ phải vĩnh viễn chấp nhận các bất lợi về thương mại vì các khu vực ảnh hưởng về kinh tế sẽ ngăn chúng ta không được can thiệp, và thúc đẩy một cuộc đua xuống đáy về lao động, môi trường, sở hữu trí tuệ và sự minh bạch.
Đóng góp to lớn của Mỹ cho hòa bình và tiến bộ đã đặt nền móng cho một thế giới mở, thượng tôn pháp luật và có tính kết nối. Bây giờ Mỹ cần phải quyết định xem có nên tiếp tục bảo vệ, sửa đổi và xây dựng dựa trên nền tảng đó hay trở thành đồng lõa với những kẻ đang cố phá vỡ nó.
Antony J. Blinken là Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ.
Ảnh: Từ trái qua: Winston Churchill, Franklin Roosevelt, and Josef Stalin tại Yalta năm 1945
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”420″ box_height=”” locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″ small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]