Nguồn: Mark Moyar, “Was Vietnam Winnable?”, The New York Times, 19/05/2017.
Biên dịch: Phan Nguyên
Sự quan tâm của tôi đối với Chiến tranh Việt Nam bắt đầu từ đầu những năm 1990 khi tôi đăng ký học một khóa học về lịch sử của cuộc xung đột này ở trường đại học. Một phần lý do đưa tôi tới chủ đề này là sự khinh thường mà các bạn học, các giáo sư và giới trí thức nói chung dành cho không chỉ cuộc chiến mà cả các cựu binh Mỹ. Đối với tôi, đó là một sự sai trái khi mà người ta cho rằng những thanh niên đánh cược cả mạng sống của mình ở Đông Nam Á lại bị xem là đáng khinh hơn những người ru rú an toàn ở nhà.
Lịch sử của cuộc chiến như được dạy trong các lớp học đại học dựa trên hai giả định chính. Thứ nhất, cuộc chiến là không cần thiết; “thuyết domino”, hay ý tưởng cho rằng việc cộng sản giành phần thắng ở Việt Nam sẽ dẫn tới sự sụp đổ ở phần còn lại của Đông Nam Á là sai. Hồ Chí Minh là một nhà dân tộc chủ nghĩa hơn là một nhà cộng sản, và vì vậy Hoa Kỳ không cần phải lo lắng về việc “đánh mất Việt Nam”. Thực tế rằng phần lớn các quân cờ domino không sụp đổ sau khi Nam Việt Nam bị đánh bại năm 1975 là bằng chứng rõ ràng nhất.
Giả định thứ hai cho rằng người Mỹ không thể thắng trong cuộc chiến này. Theo quan điểm lịch sử chính thống, Hoa Kỳ đã không bao giờ có thể chiến thắng bởi vì sự quyết tâm của những người cộng sản Việt Nam được nói là lớn hơn rất nhiều so với quyết tâm của đồng minh Nam Việt Nam của Mỹ. Không có chiến lược thay thế nào có thể mang lại thành công và vì vậy Hoa Kỳ chắc chắn phải từ bỏ Nam Việt Nam sau khi hứng chịu những thương vong kéo dài.
Khi tôi tiếp tục nghiên cứu về Việt Nam tại chương trình sau đại học, tôi bắt đầu nghi ngờ cả hai giả định này. Bằng cách đào sâu vào các khía cạnh của cuộc xung đột, tôi đã bắt gặp rất nhiều thông tin chưa được khai thác, chỉ cho tôi đi theo một hướng khác rất nhiều. (Nhiều khám phá mà tôi có được này là nhờ Merle Pribbenow, một nhà ngôn ngữ học đã nghỉ hưu, người tìm thấy và biên dịch một lượng lớn tài liệu và thông tin lịch sử từ đối phương). Những nguồn Bắc Việt Nam này đã mang lại những ánh sáng đặc biệt giúp soi rọi cho các tranh luận đã có từ lâu. Các tài liệu này chỉ ra rằng Bắc Việt đã kiểm soát cuộc kháng chiến ở Nam Việt Nam ngay từ đầu, ngay cả khi các nhà tuyên truyền của Hà Nội thuyết phục những người phương Tây cả tin rằng đó chỉ là một phong trào địa phương. Các tài liệu này cũng bác bỏ một quan điểm có từ lâu rằng Chính phủ Nam Việt Nam đã suy yếu về mặt quân sự tại thời điểm Ngô Đình Diệm bị ám sát vào tháng 11 năm 1963.
Các khám phá khác bắt nguồn từ quá trình tìm hiểu về các khía cạnh của cuộc chiến mà từ trước tới đó đã bị bỏ qua. Không sử gia nào trước đó đã xem xét chi tiết những gì đã diễn ra ở các quân cờ domino láng giềng khi Lyndon Johnson đưa ra quyết định định mệnh vào năm 1965 là đưa thêm bộ binh Mỹ tham gia vào cuộc chiến. Trong thực tế, tại Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Australia, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore, các nhà lãnh đạo chống cộng đã cảnh báo rằng sự sụp đổ của Nam Việt Nam sẽ khiến cho tất cả các quân cờ domino Đông Nam Á sụp đổ theo, và họ sẵn sàng đưa quân tham gia vào sự nghiệp chống cộng. Bỗng nhiên, “thuyết domino” lại nghe thuyết phục hơn nhiều.
Khi tôi nhận ra các khía cạnh chưa được khám phá rõ ràng là rất rộng lớn, cuốn sách lịch sử về Chiến tranh Việt Nam mà ban đầu tôi định thực hiện trong một tập đã trở thành một bộ ba tập. Tập đầu tiên đề cập tới giai đoạn 1954 – 1965 phải mất 7 năm mới hoàn thành. Có tựa “Triumph Forsaken”, cuốn sách nhanh chóng bị gọi là “xét lại lịch sử” vì nó thách thức tận gốc rễ các quan điểm chính thống đương thời và mang cùng tính chất với một số lượng nhỏ các cuốn sách khác được đánh giá tương tự như “A Better War” của Lewis Sorley và “Dereliction of Duty” của H.R. McMaster.
Cuốn sách chỉ ra rằng Hồ Chí Minh là một người cộng sản kiên định, và cũng giống như những đồng minh Liên Xô và Trung Quốc, ông giữ chặt quan điểm Mácxít- Lêninnít rằng người cộng sản tất cả các nước nên hợp tác với nhau nhằm mở rộng cách mạng thế giới. Cho tới thời điểm Johnson quyết định triển khai lục quân tại Nam Việt Nam, Hồ Chí Minh và các đồng minh của mình đã gần hoàn thành mục tiêu biến tất cả Đông Nam Á thành cộng sản, và họ gần như chắc chắn đã thành công nếu Hoa Kỳ không can thiệp. Sự can thiệp của Hoa Kỳ đã tạo điều kiện cho một cuộc đảo chính chống cộng ở Indonesia và sự tự phá hủy của Trung Quốc trong cuộc Cách mạng Văn hóa, đồng thời mang lại thêm thời gian cho các quân cờ domino châu Á khác nhằm tăng cường sức đề kháng của mình.
Tôi lập luận rằng cuộc chiến không chỉ cần thiết mà còn có thể thắng được nếu có các quyết định chiến lược phù hợp hơn. Sai lầm quan trọng nhất chính là quyết định của đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam Henry Cabot Lodge bật đèn xanh cho một cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, sự kiện đã làm đổ vỡ bộ máy an ninh Nam Việt Nam và khiến Bắc Việt Nam khởi động một cuộc xâm nhập quy mô lớn vào miền Nam. Một sai lầm khác là quyết định của Johnson không đưa lực lượng bộ binh của Hoa Kỳ vào Lào nhằm cắt đứt Đường mòn Hồ Chí Minh, một bước đi có thể đã làm biến đổi cuộc chiến và tiết giảm nhu cầu tăng cường lực lượng của Hoa Kỳ.
Cuốn sách đã tạo ra rất nhiều thảo luận trong giới học thuật, bao gồm một cuốn sách phản biện lại có tựa đề là “Triumph Revisited”. Một số cuộc thảo luận sau đó mang tính xây dựng nhưng phần lớn là mang tính bác bỏ, nhỏ nhen, thậm chí tấn công cá nhân, đặc biệt là khi những bình luận đến từ các cựu binh của phong trào phản chiến và những người được họ bảo trợ. Mặc dù một số ít các giáo sư hoan nghênh việc thách thức có căn cứ những quan điểm truyền thống, sự thù địch của đa số đối với tôi đều thể hiện rõ nét bất cứ nơi đâu tôi xin vào làm các công việc giảng dạy hoặc nghiên cứu.
Tôi nêu chuyện này lên không phải là để than thân trách phận, chuyện không may của tôi với giới học giả đã dẫn tôi tới những vận may bất ngờ khác khi tôi có cơ hội giảng dạy những sinh viên tuyệt vời tại các trường đại học quân sự của Hoa Kỳ và tiến hành nghiên cứu về các vấn đề nóng hổi khác. Thay vào đó, tôi muốn chỉ ra những mối nguy hiểm đối với xã hội mà một nền học thuật bị chính trị hóa có thể gây ra. Dù nghề này tuyên bố là chỉ có thể phát triển nếu có những ý tưởng mới và các tranh luận thay vì tẩy chay những người dám thách thức các quan điểm chính thống, thì nó lại cướp đi của sinh viên cơ hội được tiếp cận những suy nghĩ nghiêm túc và khuyến khích phần còn lại của xã hội tảng lờ chúng. Cách duy nhất để giới học thuật giành lại vai trò của mình là chỉ ra rằng họ sẵn sàng chấp nhận các thách thức và sẽ nghiêm túc xem xét các ý tưởng mới.
Lật lại những quan điểm chính thống về Chiến tranh Việt Nam ngày nay cũng quan trọng không kém gì trước đây. Khi còn làm tư vấn tại Afghanistan, Iraq và các khu vực xung đột khác, tôi đã chứng kiến các chính trị gia, sĩ quan quân đội, nhà báo và các nhà khoa học chính trị tìm cách áp dụng những bài học của Việt Nam vào bối cảnh mới. Càng chứng kiến tôi càng trở nên tin rằng hiểu biết lịch sử hời hợt và việc phụ thuộc quá nhiều vào lý thuyết hàn lâm đều mang lại những lời khuyên không đúng, những lời khuyên có thể khiến nhiều người bị giết và thậm chí là cả thất bại trong một cuộc chiến.
Thực tế, nghiên cứu mới nhất của tôi tập trung vào các sự kiện năm 1967 giúp làm sáng tỏ cách mà những thảo luận trong nước về cuộc chiến có thể mang lại một tác động mang tính quyết định. Một trong số những diễn tiến quan trọng nhất trong năm 1967 là việc Chính quyền Johnson hối tiếc về quyết định không muốn tạo ra sự ủng hộ của công chúng dành cho cuộc chiến bằng cách thảo luận sự cần thiết của cuộc chiến một cách công khai. Các quan chức của chính quyền giờ đây nhận ra rằng việc công chúng không hào hứng với cuộc chiến đã khuyến khích kẻ thù tin rằng Hoa Kỳ rốt cuộc sẽ từ bỏ đồng minh của mình, và vì vậy Bắc Việt không có lý do gì để buông bỏ.
Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk nhận xét vào hồi tháng 10 năm đó rằng “chính quyền đã đưa ra một quyết định thấu đáo là không tạo ra một tâm lý chiến tranh tại Hoa Kỳ bởi vì sẽ quá nguy hiểm nếu đất nước chúng ta trở nên căng thẳng”. Johnson, Rusk và các quan chức khác lo sợ rằng cuộc chiến sẽ làm suy yếu các dự án trong nước liên quan tới chương trình Xã hội Vĩ đại (Great Society) và khiến căng thẳng với Liên Xô gia tăng. Nhưng giờ đây Rusk đã thừa nhận rằng “có thể đây là một sai lầm; lẽ ra tốt hơn là nếu chúng ta có các bước đi nhằm khơi dậy cảm giác về một tổ quốc đang lâm chiến”.
Trong suốt năm 1967, các cố vấn Nhà Trắng và các lãnh đạo nước ngoài liên tục thúc giục Johnson thay đổi hướng đi để nói với công chúng Mỹ tại sao nước Mỹ tham chiến tại Việt Nam và các mục tiêu mà Mỹ muốn đạt được là gì. Nhưng Johnson đã không làm điều đó ngay cả khi ông ngày càng nhận ra những hậu quả tồi tệ xuất phát từ sự im lặng của mình. Johnson thừa nhận vào mùa thu năm đó rằng “nếu lịch sử kết tội chúng ta thì đó là vì chúng ta đã tiến hành một cuộc chiến mà không cố gắng khơi dậy lòng ái quốc”.
Khi không có sự khích lệ tinh thần từ tổng thống, sự ủng hộ của công chúng Hoa Kỳ đối với cuộc chiến đã suy giảm trong năm 1967. Như các quan chức chính quyền lo sợ, sự suy yếu trong quyết tâm của Hoa Kỳ đã củng cố ý chí của Bắc Việt trong việc kiên trì theo đuổi cuộc chiến. Hà Nội đã bác bỏ tất cả các đề nghị hòa đàm của Hoa Kỳ với nhận định rằng cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân sắp tới sẽ phá hủy những gì còn rớt lại trong ý chí của Hoa Kỳ.
Nói cách khác sự quay lưng của công chúng đối với cuộc chiến không phải là điều không thể tránh khỏi. Thay vào đó, đó là hậu quả từ một thất bại của các nhà hoạch định chính sách trong việc giải thích cuộc chiến và thuyết phục người Mỹ ủng hộ nó. Ngày nay, với việc đất nước chúng ta đang tham gia vào hai cuộc chiến kéo dài khác nhau cũng như khả năng các cuộc chiến khác có thể bùng phát bất cứ lúc nào, đây là một bài học mà các nhà lãnh đạo hiện tại của chúng ta nên ghi nhớ.
Mark Moyar, Giám đốc Trung tâm Lịch sử Ngoại giao và Quân sự, là tác giả của cuốn “Oppose Any Foe: The Rise of America’s Special Operation Forces” và “Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965.”