Nguồn: Jerusalem captured in First Crusade, History.com
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Vào ngày này năm 1099, trong cuộc thập tự chinh đầu tiên, các hiệp sĩ Công giáo từ châu Âu đã chiếm được Jerusalem sau bảy tuần bao vây, và bắt đầu tàn sát các cư dân thành phố theo Hồi giáo và Do Thái giáo.
Bắt đầu từ thế kỷ 11, người Công giáo ở Jerusalem ngày càng bị đàn áp bởi những nhà cai trị theo Hồi giáo, đặc biệt là khi quyền kiểm soát thành phố linh thiêng được chuyển từ tay người Ai Cập tương đối khoan dung sang người Thổ của Đế quốc Seljuk vào năm 1071. Cuối thế kỷ đó, Hoàng đế Byzantine Alexius Comenus cũng bị đe dọa bởi người Seljuk nên đã kêu gọi hỗ trợ từ phương Tây. Năm 1095, Giáo hoàng Urban II đã công khai kêu gọi một cuộc Thập tự chinh để hỗ trợ các tín đồ Công giáo Đông phương và giành lại các vùng đất thánh. Người Tây Âu ngay lập tức đáp lại lời kêu gọi này.
Những người lính thập tự chinh đầu tiên thực ra chỉ là những người nông dân Pháp và Đức vô kỷ luật, và đương nhiên, họ chỉ đạt rất ít thành công. Một nhóm, được gọi là “Thập tự chinh của Nhân dân” (People’s Crusade), đã đến được Constantinople trước khi bị người Thổ tiêu diệt. Năm 1096, quân chủ lực của thập tự chinh, gồm khoảng 4.000 kỵ sĩ và 25.000 lính bộ binh, bắt đầu di chuyển về phía đông. Được lãnh đạo bởi Raymond xứ Toulouse, Godfrey xứ Bouillon, Robert xứ Flanders và Bohemond xứ Otranto, đội quân của các hiệp sĩ Công giáo đã đến vùng Tiểu Á vào năm 1097.
Sang tháng 6, quân thập tự chinh đã chiếm được thành phố Nicaea do Thổ Nhĩ Kỳ nắm giữ và sau đó đánh bại một đội quân người Seljuk khổng lồ tại Dorylaeum. Từ đó, họ hành quân đến Antioch, nằm trên sông Orontes, bên dưới núi Silpius, và bắt đầu một cuộc bao vây kéo dài sáu tháng đầy khó khăn. Trong quá trình đó họ đã đẩy lùi thành công một số cuộc tấn công của viện binh Thổ Nhĩ Kỳ.
Cuối cùng, vào sáng sớm ngày 03/06/1098, Bohemond đã thuyết phục được một kẻ phản bội Thổ Nhĩ Kỳ mở cổng cầu Antioch, và các hiệp sĩ đổ vào thành phố. Trong cơn thịnh nộ, lính thập tự chinh đã tàn sát hàng ngàn binh lính và thường dân của kẻ thù, nhanh chóng chiếm toàn bộ thành lũy kiên cố của thành phố. Cuối tháng này, một đội quân lớn của Thổ Nhĩ Kỳ đã đến để cố gắng giành lại thành phố, nhưng họ cũng bị đánh bại, và thành Antioch buộc phải đầu hàng người châu Âu.
Sau khi nghỉ ngơi và chỉnh quân trong sáu tháng, các thập tự quân đã lên đường đến mục tiêu cuối cùng của họ, thành Jerusalem. Quân số của họ giờ giảm xuống còn khoảng 1.200 kỵ sĩ và 12.000 lính bộ binh. Ngày 07/06/1099, họ đến thành phố linh thiêng. Nhận thấy rằng nó được phòng thủ rất nghiêm ngặt, quân thập tự bắt đầu xây dựng ba tòa tháp bao vây khổng lồ. Đến đêm ngày 13/07, các tòa tháp đã hoàn thành và họ bắt đầu tấn công Jerusalem. Sang ngày 14, lính của Godfrey là những người đầu tiên thâm nhập vào tuyến phòng thủ của Jerusalem và mở được Cổng Thánh Stephen. Phần còn lại của đoàn quân thập tự chinh ồ ạt tiến vào thành phố, hàng chục ngàn cư dân ở đó đã bị tàn sát.
Thập tự quân đã đạt được mục đích và Jerusalem rơi vào tay người Công giáo, nhưng một đội quân Ai Cập đã tiến vào thành phố chỉ vài tuần sau đó để thách thức họ. Dù vậy, vào tháng 8, người Ai Cập đã thất bại trước phe Công giáo áp đảo. Sự kiện này đã chấm dứt sự kháng cự của người Hồi giáo đối với người châu Âu ở thời điểm ấy, và năm quốc gia Công giáo nhỏ đã được thiết lập trong khu vực dưới sự cai trị của các nhà lãnh đạo cuộc thập tự chinh.