Nguồn: Che-Jen Wang, “Time for a ‘Semi-Quad’ Alliance”, The Diplomat, 28/05/2021.
Biên dịch: Trần Thị Nhân Duyên & Nguyễn Văn Nhật Huy
Từ khi Tổng thống Mỹ Joe Biden nhậm chức vào tháng 1/2021, vấn đề bán dẫn đã chiếm vị trí nổi bật trong chương trình nghị sự của chính phủ mới. Đây không chỉ liên quan đến vấn đề tạo công ăn việc làm cho những người dân và kế hoạch “Build Back Better”[1] (Xây dựng lại tốt hơn), mà nó còn gắn liền với sự phục hồi vị trí đầu tàu của Mỹ trong ngành sản xuất bán dẫn; và hơn hết là tương lai đối với sự lãnh đạo của Mỹ trong “thời đại châu Á”. Sau hai hội nghị thượng đỉnh trực tiếp đầu tiên của mình với Thủ tướng Nhật Bản Suga Yoshihide vào ngày 16/4 và Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in vào ngày 21/5, ông Biden đã nhấn mạnh tầm quan trọng của an ninh và tính bền vững của chuỗi cung ứng bán dẫn, cũng như ý định hợp tác về các vấn đề bán dẫn với hai quốc gia này. Tuy nhiên, an ninh và tính bền vững về lâu dài của chuỗi cung ứng chất bán dẫn sẽ gặp rủi ro nếu như sự hợp tác đó không mở rộng sang các quốc gia cùng chí hướng khác.
Trước sự phát triển không ngừng trong thị trường bán dẫn của Trung Quốc cùng với sự hỗ trợ từ chính phủ nước này, các phương thức hiện tại của Mỹ nhằm ngăn chặn sự tiến bộ của Trung Quốc trong lĩnh vực bán dẫn vẫn không đủ mạnh. Để ngăn sự thống trị của Trung Quốc trong ngành công nghiệp bán dẫn thì Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc cần phải thành lập một “Bộ tứ bán dẫn” để cùng nhau phối hợp các chính sách và những nỗ lực chung.
Có hai trở ngại lớn trong việc thiết lập một chuỗi cung ứng chất bán dẫn bền vững tại chỗ mà miễn nhiễm với vấn đề địa chính trị: cơ sở sản xuất các thiết bị bán dẫn tập trung quá nhiều tại châu Á, nhất là ở Đài Loan; trong khi đó, sản xuất ở Mỹ lại suy giảm. Những yếu tố này ảnh hưởng đến nguồn cung chất bán dẫn của Mỹ và đặt ra mối quan ngại về an ninh quốc gia. Vì thế, chính phủ Biden dự kiến sẽ chi 50 tỷ USD để phục hồi vị trí đầu tàu trong ngành bán dẫn của quốc gia này. Tập đoàn Intel – vốn đã cam kết đầu tư 20 tỷ USD vào hai nhà máy sản xuất bán dẫn – sẽ đóng một vai trò quan trọng trong “thời kỳ phục hưng bán dẫn” của Mỹ. Đây có thể là một bước đi đúng đắn trong ngắn hạn vì trợ cấp sẽ làm tăng động lực cho việc xây dựng các nhà máy. Tuy nhiên, mục tiêu dài hạn trong kế hoạch của Biden có thể không đạt được vì những lý do sau.
Trước hết, sự dịch chuyển của các cơ sở sản xuất chất bán dẫn từ Mỹ sang châu Á – đầu tiên là Nhật Bản, sau đó đến Đài Loan và Hàn Quốc – trong những thập niên qua là do lợi thế cạnh tranh tại châu lục này, tương tự như các ngành công nghiệp khác.
Việc sản xuất chip cần rất nhiều vốn và lao động có tay nghề cao. Chi phí cho một nhà máy bán dẫn 3 nm (nanomet) là 19 tỷ USD – con số này khấu hao chỉ trong năm năm. Điều này đòi hỏi biên lợi nhuận cao cũng như doanh số lớn để bù đắp cho chi phí khấu hao cao phát sinh từ việc đầu tư cho các công nghệ sản xuất chip với quy trình hiện đại. Tuy nhiên, Intel đã không thể giành được thị phần của thị trường thiết bị di động vốn đang phát triển nhanh trong vòng 15 năm qua, trong khi thị trường PC (máy tính cá nhân) đang dần bị thu hẹp. Ngoài ra, sự thất bại của Intel trong việc sản xuất chip 7 nm đã khiến tập đoàn này gặp bất lợi trong việc cạnh tranh với TSMC và Samsung. Do đó, chỉ TSMC và Samsung – vốn đã lên kế hoạch xây dựng các nhà máy bán dẫn như vậy – mới có thể đủ chi phí để đảm bảo vị trí dẫn đầu trong ngành này.
Các lợi thế khác của các nhà sản xuất bán dẫn châu Á bao gồm nhóm các nhà cung cấp vệ tinh, dịch vụ khách hàng tốt và nguồn nhân lực. Những điều này giúp tối ưu chi phí so với các đối thủ cạnh tranh của họ ở Mỹ. Chi phí sản xuất của mỗi con chip là yếu tố cơ bản tạo nên khả năng cạnh tranh và dẫn đến thành công dài hạn, chứ không phải là các khoản trợ cấp. Ngoài ra, sản xuất bán dẫn thuần túy[2] thay vì tự thiết kế sản phẩm của mình không phải là một mô hình kinh doanh có lợi nhuận cao. Một báo cáo gần đây của OECD ước tính rằng tỷ suất lợi nhuận gộp trung bình của sản xuất bán dẫn thuần túy trong năm 2018 là khoảng 20%. Đây là lý do tại sao trong những thập niên qua, Intel đã từng bước thuê ngoài các công ty châu Á gia công sản xuất để tập trung vào các sản phẩm có tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
Thứ hai, mặc dù sự phân công lao động trong ngành bán dẫn khá rõ ràng: Mỹ đang thống trị thị trường thượng nguồn với rất nhiều sở hữu trí tuệ (Intellectual Property – IP) và máy móc cần thiết để sản xuất vi mạch tích hợp (integrated circuit – IC), Nhật Bản dẫn đầu về nguyên liệu thô (nhất là nguyên liệu hóa học đặc biệt), Đài Loan và Hàn Quốc thì có chi phí sản xuất tiết kiệm hơn. Tuy nhiên, các quốc gia này đều đang phải đối mặt với việc Trung Quốc đang dần bắt kịp về công nghệ. Lịch sử đã cho thấy rằng nếu người Trung Quốc biết cách sản xuất một sản phẩm hoặc dịch vụ, thì sớm hay muộn, quốc gia này sẽ chiếm lấy thị trường nhờ vào nguồn nhân công rẻ, thiếu tuân thủ quy định, trợ cấp chính phủ, ưu đãi thuế, và chuyển giao công nghệ bắt buộc hoặc “đánh cắp” công nghệ. Ngày nay, các ngành công nghiệp do Trung Quốc thống trị trải dài từ các vật liệu như thép và hóa chất, đến các sản phẩm tiêu dùng như quần áo và điện thoại thông minh. Ngay cả các công ty truyền thông xã hội và trực tuyến của Trung Quốc, bao gồm Alibaba, Tencent, WeChat và ByteDance (chủ sở hữu của TikTok) đều có thể cạnh tranh với phương Tây.
Trung Quốc đã tiêu thụ lượng chip trị giá 143,4 tỷ USD trong năm 2020, tương đương mức tăng hằng năm 9%; nhưng chỉ sản xuất lượng chip trị giá 22,7 tỷ USD (15,9%). Trung Quốc đang đề ra mục tiêu đầy tham vọng là chip sản xuất nội địa sẽ phải chiếm 70% tổng lượng chip được tiêu thụ của nước này vào năm 2025, đồng thời rót thêm vốn vào ngành bán dẫn. Chính phủ nước này cũng dự chi 155 tỷ USD trong kế hoạch 5 năm gần đây nhất để hỗ trợ ngành công nghiệp vi mạch tích hợp. Trong vài năm tới sẽ có thể có thêm một làn sóng chuyển giao khác – hợp pháp hoặc không – về tài sản trí tuệ và nhân tài sang Trung Quốc.
Trong khi vấn đề hiện tại của Trung Quốc nằm ở chỗ không có khả năng sản xuất chip cao cấp, các công ty bán dẫn của họ đều có thể đi tắt đón đầu thông qua việc chuyển giao công nghệ, bao gồm thuê chuyên gia từ nước ngoài và chuyển giao công nghệ bắt buộc – hoặc thậm chí là “đánh cắp”. Các công ty Trung Quốc đang “săn trộm” tất cả công nghệ và nhân tài sẵn có cùng với toàn bộ lĩnh vực thiết kế và sản xuất vi mạch – từ khắp nơi trên thế giới. Ví dụ, ba công ty Trung Quốc mới thành lập gần đây là X-Epic, Shanghai Hejian Industrial Software và Amedac đã thuê các chuyên gia từ Synopsys và Cadence Design Systems để phát triển các công cụ tự động hóa thiết kế điện tử (EDA) do Trung Quốc sản xuất. Các công ty bán dẫn khác ở Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng bị Trung Quốc tấn công mạng và lôi kéo nhân tài.
Do đó, rõ ràng là chỉ một mình chính phủ Mỹ sẽ không thể ngăn cản Trung Quốc thúc đẩy ngành sản xuất bán dẫn của nước này. Do tỉ trọng sản phẩm bán dẫn sản xuất ở Mỹ còn nhỏ, chính sách hiện tại của Mỹ không thể cản Trung Quốc giành được các công nghệ và loại chip quan trọng, đồng thời cũng không thể đối trọng lại được lời kêu gọi gia tăng sự tự chủ công nghệ sản xuất bán dẫn của Tập Cận Bình. Vì vậy, chính phủ Mỹ, Nhật, Đài Loan và Hàn Quốc phải phối hợp nỗ lực với nhau để đáp lại các biện pháp mạnh mẽ của Trung Quốc.
Do các nhà sản xuất bán dẫn nằm rải rác ở Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc và mức độ bảo vệ công nghệ giữa các nhà sản xuất có thể khác nhau nên rất khó để ngăn chặn hoàn toàn công nghệ bán dẫn tiên tiến tràn vào Trung Quốc. Nếu chính quyền Biden muốn ngăn chặn hoàn toàn sự phát triển nhanh chóng của công nghệ bán dẫn ở Trung Quốc thì cần phải có các chính sách ngăn chặn mạnh mẽ hơn nữa cũng như có sự phối hợp của nhiều quốc gia trong đó. Nếu như Mỹ không thành lập “Bộ tứ bán dẫn” – tương tự như cơ chế “Tứ giác kim cương” [3](QUAD) hoặc “Liên minh Ngũ nhãn”[4] (Five Eyes) – và có sự phối hợp chính sách với Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, thì cạnh tranh công bằng và thương mại bền vững đối với các thiết bị bán dẫn sẽ khó có thể trở thành hiện thực.
Che-Jen Wang là nghiên cứu viên trợ lý tại Viện Nghiên cứu An ninh và Quốc phòng (INDSR), Đài Loan.
—————-
[1] Khẩu hiệu tranh cử của ông Joe Biden trong cuộc đua vào Nhà Trắng năm 2020.
[2] Là gia công chip cho các công ty khác, thay vì thiết kế sản phẩm của riêng mình
[3] Diễn đàn chiến lược không chính thức giữa Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Úc, được duy trì bằng các hội nghị thượng đỉnh bán thường xuyên, trao đổi thông tin và diễn tập quân sự giữa các quốc gia thành viên.
[4] Cơ quan tình báo Five Eyes thành lập sau Thế Chiến thứ II do năm nước Hoa Kì, Anh Quốc, Úc, Canada và New Zealand hợp thành. Mục đích là thực hiện liên lạc và trao đổi tin tức tình báo, cùng nhau chia sẻ dữ liệu thương mại thu thập được giữa các ban ngành chính phủ và doanh nghiệp ở các quốc gia này.